BLOG CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG (NK 67 - 74) lIÊN HỆ:(chsbodelengoctam - Mail: lengoctam138@gmail.com - ĐT 0914.000909 - 0919.956515) |
CHS BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM TRÊN HÒN CHỒNG NHA TRANG |
Thổ Ngữ Huế ( Ngọc Tâm st )
Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng
vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương
để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong
phú hơn nhiều . Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi
nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu .
Nữ sinh xứ Huế |
Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy
chồng: “Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi
ló ngoài cươi, en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . en đẩn . Mi quai
chướng khôn ?” Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói
bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: “Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở
rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao
lên giường, rồi ảnh . . . Mày coi có kỳ không ?” .
Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa
như ăn: “Đẩn cho bưa rồi đi nghể” . Ăn cho no rồi đi ngắm gái . Đẩn cũng có
nghĩa là đánh đòn: “Đẩn cho hắn một chặp!” (Đục cho hắn một hồi!) . Chữ đẩn còn
được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có .
. . thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . . đã thông cho được:
“Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ
biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng
con gà, cụ mự qua chút chò bui .”
(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con
cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá .
Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui) Khó hiểu chưa ? !
Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin
được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra
câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn: “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!” (Thứ mặt
mày hốc hác mà đòi hóng trai) Độc chưa ?
Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém
. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ
gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế .
Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó
lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều “Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại !”
(Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại) .
Chữ lưa cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi
Con đò đã khác năm xưa tê rồi
Chợ xép bến đò Tiên Nộn |
Này lại (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương
đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại . Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi
mua bán um sùm Đập chắc lỗ đầu, vại máu! (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)
Thương bọ mạ để mô ? Để côi trốt! Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc
chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa:
“Thương bố mẹ để đâu ? Để trên đầu!” Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười,
nghe hoài không biết chán
Tra trắn rứa mà còn ở lỗ! (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng) . Ở lỗ
cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ
trèo cau!”
Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà xem .) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến
nhiều địa phương khác
Mự đừng có làm đày! (Mợ đừng có lắm lời, thày lay) . Riêng chữ cụ mự thường là
dùng cho cậu mợ . Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay
ông . Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí ” ở Huế, dân Huế đã
có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Bến nước quê hương |
Chộ chưa ? Nỏ chộ ! (Thấy chưa ? Không thấy !) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha
chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ
biết ! Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn
đang ở đâu ! Tục ngữ Huế: Có vỏ mà nỏ có ruột .
Khóc lảy đảy, không biết ốt dột ! (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!) .
En dòm tui, tui dị òm ! (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !) Chữ òm người Huế vẫn
thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở òm !
O nớ răng mà không biết hổ ngươi ! (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ !) Hổ ngươi
cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt
dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng
Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn !: Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới . Mời ôn mệ
thời cơm: Mời ông bà dùng cơm .
Cầu ngoái Thanh Toàn |
Ăn bụ cua cho hết đái mế: Ăn vú cua cho hết đái dầm . Chữ bụ cũng dành cho
người và các loài có vú khác . Bụ mạ là vú mẹ, bọp bụ là bóp vú .
Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn ! (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn
quá trời luôn !) . Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê !
hoặc khủng khiếp quá !, mà còn có nghĩa, thí dụ: Con nớ đẹp dễ sợ !: Con bé đó
đẹp quá trời !
Răng mà cú tráu rứa tê ?: Sao mà cộc cằn quá vậy ? Chữ cú tráu nếu phát âm đúng
với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ
như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .
Huế nói trại :
Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng
dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác” . Cách nói bị biến âm này
rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng
hơn, khó hiểu hơn .
Tím Huế thân thương |
Con tâu tắng ăn ngoài bụi te tức là con trâu trắng ăn ngoài bụi tre . Tời tong
tẻo, nước tong veo: Trời trong trẻo, nước trong veo .
Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi”: già
(nhà) . Giớ già giớ vợ ở già: Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”: Ăn thung mặc thướng:Ăn
sung mặc sướng hoặc Thầy gòn là Sài gòn, hoặc nữa: Noái năng thòng phẳng: nói
cho sòng phẳng, rõ ràng .
Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng”: Con thằng
lằng chép miệng thở thang!: Con thằn lằn chép miệng thở than!
Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”: Xa voài voại, noái khôn tới, với
khôn được, ngó khôn chộ: Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không
thấy! Hoặc nữa: Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai Đi coi bói,
thầy bói nói đi coi cái vòi voi.
Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u”: Thúi trong thúi
ra: Thối từ trong ra ngoài. Túi lửa tắt đèn: Tối lửa tắt đèn.
Nậy rồi mà mũi rãi thò lò !: Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng ! Chữ thò lò cũng đã
góp mặt trong ca dao Huế:
Vô rú mà đốn săng: Vào rừng mà đẵn gỗ . Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò
giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:
Bên nữ:
Nhà Nội quê tôi |
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời
Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than
(Thang) . Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là
những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu .
Bên Nam:
Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề !
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa ?
Đã ngụy chưa tề !
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa ?
Ai bảo chăn trâu là khổ ? Chăn trâu sướng lắm chứ! |
Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy ? Ý ư, cũng
điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở
bên Tàu luôn . Còn hai người có “tào khang” với nhau được hay không là chuyện .
. . của họ
En trên rầm thượng bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương !:
Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi
nhà thương !
Rầm thượng là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà ? Ở Huế, rầm thượng không
phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ
nhỏ, vì không có lối lên . Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã
dùng rầm thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm . Còn nếu qúy
nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có
luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà ! Mặt bằng của rương xe
là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo
Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời !: Nước mắt lau, thấm hoài
không khô, sao khổ vậy nè trời ! Chữ chặm cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò
giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải . . bỏ chày luôn:
Hai hàng nước mắt như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ !
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ !
Lối về xóm nhỏ đi qua đình làng quê tôi |
“Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với
“mồ cha mày” . Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác .
Đi xe hay đi chưn xuống
rứa ?: Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy ?
Túi thùi thui, có chộ chi mô !: Tối quá, không thấy gì hết!
Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió !:Cạn túi rồi mà còn làm chảnh, làm sang!
Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè: Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh) .
Tục ngữ Huế: Ăn lưng đoại, làm đoại lưng (làm muốn gãy lưng !) .
Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau
sống, thân chuối non, rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu
ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế .
Bữa ni đi kéo ghế: Hôm nay đi ăn nhà hàng . Người Huế, nhất là ở thôn quê,
thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa . Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ
kéo cái ghế mà ngồi vào bàn . Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng
thì gọi là đi kéo ghế .
Huế làm đày làm láo, Huế nói chữBên Chùa Thiêng Mụ |
Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh,
vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn
nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi dùng
chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:Cái con nớ, lanh cha lanh chanh ! Mấy mụ o
giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu:
Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè !: Sao mà nó vô phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ
lòm lòm, đen thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt) .
Bởi, cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn !: Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi
làm rể !
Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà
dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai !.
Am (Miếu Âm hồn quê tôi) |
Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là
đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh
hoạt dưới mái gia đình:
Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng
hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa . Bọ mạ thì quần
ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình . Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu
thúi ruột thúi gan !
Cái thông điệp cho thằng em trai thì: Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm,
mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô
khuôn vô phép . Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng
mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được ?!
Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm
thêm cho ý tưởng của mình: Đó, mi thấy đó . Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong
Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn . Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá
quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ !
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa
ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen
sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp
Nhà của Ôn, Mệ tui ngoài nớ đó tề. - Nhà của Ông, Bà tôi ngoài Huế .... (Đây là cổng ngõ nhà của Ba tôi xây dựng cho Ông Bà nội. Tại Thôn Thế Vinh xã Phú Mậu Huyện Phú Vang TT Huế) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét