Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012

NHÂN NGÀY GIỔ TỔ HÙNG VƯƠNG (Mồng 10 tháng 3 Âm lịch)

Những truyền thuyết về thời đại Hùng Vương

Thứ Ba, 22/02/2011, 04:06 CH | Lượt xem: 5229

Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương - Thánh Gióng và Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, còn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về Bánh Dày - Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ Đồng Tử, về Cột đá thề...
    Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương và truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.
Phù Đổng Thiên Vương
    Vào đời Vua Hùng Vương thứ 6 có giặc Ân rất mạnh, đã thôn tính nhiều nước xung quanh. Chúng kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà Vua cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.
    Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một con trai, lên ba mà vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.
    Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà Vua vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu Vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một thanh kiếm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.
    Từ khi sứ nhà Vua về làng, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng trôi qua, cậu lớn phổng lên thành người khổng lồ.
    Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thì sứ giả đem ngựa, kiếm và nón sắt dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa. Ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra lửa đến đó. Cậu xông vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gẫy, cậu nhổ cả các cụm tre mà đánh giặc. Không đương nổi sức mạnh thần diệu của chàng trai Phù Đổng, tàn quân giặc quỳ gối xin hàng.
Phá xong giặc Ân, người Anh hùng làng Phù Đổng đi lên đỉnh núi Sóc Sơn, cả người lẫn ngựa bay lên trời. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Sơn Tinh - Thủy Tinh
    Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy Tinh (Thần Nước) cùng đến cầu hôn. Hùng vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ vật đến trước. Sơn Tinh đem lễ vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến sau nổi giận dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao lên đến đó. Cuối cùng Thủy Tinh thua trận phải rút nước. Hằng năm, cuộc chiến thường diễn lại.
     Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt ở lưu vực sông Hồng và việc đắp đê trị thủy của tổ tiên ta có từ xa xưa.
Ngoài ra còn có các truyền thuyết tiêu biểu sau:
Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương - Thánh Gióng và Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, còn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về Bánh Dày - Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ Đồng Tử, về Cột đá thề...
Bọc trăm trứng
     Vua đầu nước ta - Kinh Dương Vương là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông - vị thần trông coi nghề nông ở trên trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được". Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, còn Lạc Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương đặt tên nước Văn Lang đóng đô ở thành Phong Châu, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.
Bánh Giày - Bánh Chưng
     Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hoàng tử ra sức tìm kiếm sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu chỉ dùng gạo nếp thơm chế ra bánh giày, bánh chưng. Vua thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương thứ 7



Nguồn gốc Dưa hấu
An Tiêm là con nuôi Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm chỉ được mang theo một ít lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng đỏ, dây bò trên mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho đón về.



Chử Đồng Tử
      Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng. Nàng cưỡi thuyền xuôi sông Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá ở trần vùi mình trong hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm chồng. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì cả vùng đất cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời.










Cột đá thề
     Vua Hùng Vương thú 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn tức là Tản Viên. Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng. Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.
Nguồn: lichsuvietnam.vn

Bí mật cột rồng đá ngàn tuổi phá phép yểm bùa

- chuyên mụcTin Tức|Sự Kiện Hàng Ngày |



Có một điều kỳ thú khiến các nhà khoa học say mê tìm hiểu, đó là làm cách nào mà người xưa, với công cụ thô sơ đã vận chuyển được khối đá khổng lồ này lên gần đỉnh núi Dạm? Theo tính toán, cột đá này nặng ít nhất 54 tấn.
Kinh Bắc là vùng đất cổ kính, với dày đặc các di tích lịch sử xếp hạng quốc gia. Tuy nhiên, trong một báo cáo đề xuất công nhận bảo vật quốc gia gửi đến Cục Di sản Văn hóa, Bảo tàng Bắc Ninh lại chọn cột đá chùa Dạm là bảo vật đứng đầu. Vậy cái cột đá có gì đặc biệt, được coi trọng như thế?
Cột rồng đá chùa Dạm.
Đi tìm bí mật rồng đá
Những ngày đầu năm, chúng tôi theo đoàn người tứ phương, xe cộ nườm nượp đổ về quả núi Đại Lãm, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để chiêm ngưỡng, cầu may trước tượng rồng đá ở chùa Dạm. Lên chùa Dạm có hai đường, một đường đi bộ theo các bậc đá quanh co từ chân lên đến đỉnh núi, một đường xe ủi mới mở chạy thẳng lên chùa. Cả hai đường đều vắng quay vắng quắt, chẳng có bóng người. Ngôi chùa tuềnh toàng, tạm bợ, nhỏ xíu cũng cửa khóa, chẳng có ai. Giờ tôi mới hiểu, chùa Dạm chỉ còn là thứ trong sách vở.
Thứ tôi cần tìm nằm uy nghi ngay cuối con đường mới mở từ chân núi lên tận ngôi chùa Dạm dựng lại tạm bợ. Tôi thực sự sững sờ trước một tuyệt tác đã đứng đó gần 1.000 năm. Trải bao mưa nắng, trơ gan cùng tuế nguyệt, công trình điêu khắc độc nhất vô nhị này vẫn chứa đựng những bí mật chưa được khám phá. Thật không quá lời, khi các cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh khẳng định rằng, cột đá chùa Dạm là công trình nghệ thuật đặc sắc bậc nhất thời Lý còn lưu truyền cho hậu thế.
Lang thang loanh quanh khu vực núi Dạm, tôi gặp được cụ Nguyễn Thị Thập. Cụ Thập là Phật tử, thường xuyên lên chùa lau dọn, trông giữ những di vật để ngổn ngang, dãi dầu mưa nắng. Theo cụ Thập, truyền thuyết trong làng đều khẳng định rằng, cột đá chạm rồng có từ thời Lý.
Theo truyền thuyết, người phương Bắc đã trấn yểm linh hồn Cao Biền ở quả núi Dạm. Vì muốn xâm lược nước ta, nên tìm cách khiến Cao Biền sống dậy. Họ đã mang 100 nén hương đến nhờ một người dân trong vùng đốt ở núi này. Khi đốt xong nén hương cuối cùng, Cao Biền sẽ sống dậy và nhà Lý sẽ sụp đổớ, nước Nam sẽ về tay phương Bắc. Biết ý đồ xấu của họ, nên người này đã đốt luôn 100 nén cùng lúc, khiến Cao Biền không sống lại được. Cột đá được dựng lên vừa để tưởng nhớ người dân anh dũng kia, vừa là trấn yểm và là biểu tượng của sự vững bền...
Giải mã rồng đá...
Chẳng thế mà, như lời hòa thượng Thích Thanh Dũng (trụ trì chùa Hàm Long kiêm chùa Dạm), dù trải qua ngàn năm, đổi thay thế sự, chùa bị nhiều đời phá hoại, nhưng cột đá vẫn vẹn nguyên. Các cụ truyền rằng, hễ ai động đến cột đá, lập tức thần sét sẽ giáng đòn chí mạng vào đầu? Chẳng ai dám động vào cái cột đá kỳ bí ấy. Theo hòa thượng, các nhà khoa học đo đạc thấy rằng, không tính phần chôn sâu dưới đất, cột đá này cao 5m. Cấu trúc điêu khắc chia cột làm 2 phần. Phần dưới hình vuông, phần trên hình tròn. Có thể điều này biểu trưng cho quan niệm trời tròn đất vuông của cha ông ta. Khối hộp vuông phía dưới có tiết diện một cạnh 1,4m và một cạnh 1,6m. Phần tròn trên thu nhỏ hơn một chút, nhưng đường kính cũng tới 1,3m.
Những nét chạm khắc tinh sảo trên cột đá chùa Dạm.
Điểm nhấn của phần tròn và cũng là của toàn bộ cột đá này chính là tác phẩm điêu khắc rồng đá theo phong cách thời Lý. Thời Trần, Lê sau này điêu khắc rồng mang tính cách điệu cao, nhưng thời Lý thì rất chi tiết, tỉ mỉ. Đôi rồng với vuốt 5 móng sắc nhọn, bờm thành búi, thân giống rắn quấn chặt cột đá, đuôi ngoắc vào nhau, miệng ngậm ngọc, đầu vươn cao chầu mặt trời vừa uy nghi vừa sinh động. Đứng từ xa nhìn lại, thấy cột đá hiên ngang trên sườn núi, tiến lại gần thấy cột đá vô cùng hoành tráng nhưng cũng không kém phần tinh xảo.
Một số nhà nghiên cứu khi xem xét đã cho rằng, cột đá này mang tiểu tượng Linga của văn hóa Champa. Cột đá biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, cầu mưa thuận gió hòa.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu của nước ta, như TS Lê Đình Phụng (Viện Khảo cổ), ông Nguyễn Hùng Vĩ (giảng viên Trường ĐH KHXH&NV) đều bác bỏ thông tin cho rằng cột đá là một cái Linga. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, qua 6 lỗ hình chữ nhật (đặt dầm chịu lực-PV) ở gần đỉnh cột, có thể tin rằng cột đá là trụ đỡ của một kiến trúc nào đó. TS. Phụng tin rằng, cột đá này có liên hệ với ngôi chùa Một Cột ở Thăng Long. Vua Lý Thánh Tông đã xây chùa Một Cột sau giấc mơ hoa sen, và người con của ông, vua Lý Nhân Tông cũng có thể dựng một ngôi chùa nữa như phiên bản trên núi Đại Lãm. Theo đó, trên cột đá chùa Dạm người ta thờ Phật Quan âm - gắn liền với hình ảnh hoa sen.
Nhưng cũng có giả thuyết khác cho rằng, trên đỉnh cột đá là tòa sen. Hình tượng rồng đội tòa sen là mô típ rất phổ biến ở trong các ngôi chùa Việt. Có một điều kỳ thú khiến các nhà khoa học say mê tìm hiểu, đó là làm cách nào mà người xưa, với công cụ thô sơ đã vận chuyển được khối đá khổng lồ này lên gần đỉnh núi Dạm? Theo tính toán, cột đá này nặng ít nhất 54 tấn.
Loại đá làm cột này không có trong vùng Bắc Ninh, mà phổ biến ở vùng Hải Dương, Quảng Ninh. Các nhà khoa học cho rằng, người xưa đã vận chuyển cột đá theo đường sông Hồng, rồi đào ngòi Con Tên đến tận chân núi để kéo khối đá. Sau đó, họ mở một con đường dẫn lên núi mà độ dốc ở mức tối thiểu. Những khúc gỗ làm dầm chịu lực phải là loại gỗ lim hoặc cứng tương đương và số người thực hiện vận chuyển khối đá này phải lên đến cả trăm người, cùng trâu mộng, voi, ngựa.
Cùng với cột đá khổng lồ, quả núi Dạm từng tồn tại một ngôi chùa vô cùng hoành tráng. Trải qua chiến tranh loạn lạc, rồi tiêu thổ kháng chiến thời Pháp, ngôi chùa đã bị phá hủy hoàn toàn.
Chùa dạm, đã từng có hàng trăm gian...                    
Hòa thượng Thích Thanh Dũng cho biết, chùa Dạm còn có nhiều tên khác nhau như là Đại Lãm, Cảnh Long Đồng Khánh tự, chùa Tấm Cám. Gọi là chùa Tấm Cám, vì chùa được khởi dựng để làm nơi tu hành của Nguyên Phi ỷ Lan, cũng là nơi khởi nguồn truyện cổ tích Tấm Cám. Trên núi hiện còn một cái giếng có tên gọi là Bống. Hiện tại, nền thứ ba và bốn của ngôi chùa vẫn còn dấu tích chùa và đền thờ Bà Tấm - Nguyên phi ỷ Lan.
Chùa Dạm được xây dựng vào năm 1086. Sau hơn 10 năm xây dựng, năm 1097 chùa Dạm mới hoàn thành. Vua Lý đã đặt tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, ban 300 mẫu tự điền (ruộng thuộc nhà chùa) để chùa có hoa lợi.
Chùa Dạm được xây dựng trên diện tích trên 2 mẫu Bắc Bộ, với 4 cấp cao dần lên đỉnh núi. Các cấp nền đều có xếp đá lớn chống xói lở, cao tới 6-7m. Ngôi chùa này cũng từng được gọi là chùa Trăm Gian, vì chùa rất rộng lớn, với hàng trăm gian nhà. Tuy nhiên, giờ đây, thứ còn lại của ngôi chùa khổng lồ khi xưa chỉ là cột đá chạm rồng, cùng những bức tường đá vĩ đại kè núi. Nhìn những bức tường xếp đá khổng lồ như tường thành vẫn còn lại đến ngày nay có thể hình dung được sự hoành tráng của ngôi chùa này.
Cũng theo hòa thượng Thích Thanh Dũng, Nhà nước đã có dự án phục dựng lại chùa Dạm. Đây là dự án khổng lồ, ngốn kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Hiện tại, việc khai quật khảo cổ đã hoàn tất và sẽ triển khai dựng chùa trong thời gian không xa. Với chùa Dạm, Bắc Ninh sẽ lại có một công trình đồ sộ phục vụ Phật tử cả nước.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét