Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

HO VÀ PHƯƠNG PHÁP GIỮU ẤM, BẤM HUYỆT DŨNG TUYỀN

BLOG CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
Home: 138 Đống Đa, Q. Hải Châu TP Đà Nẵng
Blog: chsbodelengoctam - Email: lengoctam138@gmail.com
ĐT: 0914.00.09.09 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108
MONG ĐƯỢC ĐÓN NHẬN THÔNG TIN, HÌNH ẢNH CỦA CÁC BẠN CHS BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG




BẤM HUYỆT DŨNG TUYỀN TRỊ DỨT CƠN HO MÃN TÍNH 

Liệu pháp ủ ấm lòng bàn chân và kích thích huyệt dũng tuyền có hiệu quả 

rất nhanh chóng với những cơn ho mãn tính lâu ngày.

Phép chữa theo Đông y
   
Ho là một phản xạ tự nhiên của cơ thể để tống xuất những vật lạ, có thể là chất dịch nhầy hoặc vi khuẩn đang khu trú trên đường thở. Ho là một dấu hiệu thường gặp của các chứng cảm cúm thông thường do nhiễm trùng đường hô hấp. 
   Vấn đề là nhiều khi cảm cúm đã qua đi nhưng triệu chứng ho vẫn không dứt, dù người bệnh đã đi khám bác sĩ, đã dùng thuốc kháng sinh. Các chứng ho kéo dài, đôi khi ho khan, không đờm, không sốt nhưng gây khó chịu trong giao tiếp, hay dễ xảy ra ở những người có cơ địa dễ bị kích ứng với những thay đổi của thời tiết.
   Y học dân gian có một cách đơn giản để chữa trị chứng ho dai dẳng này, chủ yếu là làm ấm vùng bàn chân bằng cách xoa dầu nóng vào lòng bàn chân và mang vớ vào trước khi đi ngủ.
Cách chữa này cũng đặc biệt hiệu quả đối với các chứng ho do lạnh thường xảy ra vào mùa đông, mùa xuân ở trẻ em và nhiều người cao tuổi. Các chứng ho thường xảy ra về đêm, gần sáng, gây khó ngủ, mệt mỏi, mất sức.

Day huyệt dũng tuyền.
Trong cách chữa trên, ủ ấm lòng bàn chân giúp tăng cường lưu thông khí huyết xuống phía dưới tạo hiệu ứng giáng khí. Xoa dầu nóng giúp kích hoạt huyệt dũng tuyền. Dũng tuyền là tỉnh huyệt của đường kinh túc thiếu âm thận, huyệt đặc trị để trừ hư hỏa, giáng khí nghịch.
Cách làm
Chuẩn bị 1 đôi vớ và 1 lọ dầu nóng hoặc dầu cù là. Chỉ cần loại vớ thường, vớ ngắn, tránh loại vớ bó chặt ở miệng vớ để ống chân được thoải mái. 
Trước khi ngủ, hãy thoa dầu vào vùng huyệt dũng tuyền ở lòng bàn chân trước khi mang vớ vào và để qua đêm trong khi ngủ. Thực hành liên tục từ 3 - 5 đêm. Động tác đơn giản nhưng hiệu quả rất kỳ diệu. Nhiều trường hợp hiệu quả có thể thấy được ngay sau đêm đầu tiên. 
   Huyệt dũng tuyền ở chỗ lõm giữa lòng bàn chân, tại điểm nối 2/5 trước và 3/5 sau của đoạn thẳng nối từ đầu ngón chân thứ hai đến bờ sau của gót chân.
   

Giữ cho đầu mát chân ấm là một nguyên tắc quan trọng để giữ gìn sức khỏe và đối trị lại các chứng khí nghịch gây nhức đầu, mất ngủ, áp huyết cao, lở miệng, ho dai dẳng lâu ngày... Ngâm chân nước nóng, đắp thuốc huyệt dũng tuyền là những liệu pháp dân gian ứng dụng cơ chế này. Xoa dầu và mang vớ ủ ấm bàn chân đơn giản hơn nhưng có thể bảo vệ độ ấm của bàn chân xuyên suốt qua đêm trong lúc ngủ. 
   Cách làm này không chỉ chữa được ho dai dẳng mà còn hữu ích với các chứng khó ngủ, áp huyết cao và có giá trị phòng bệnh rất cao đối với người cao tuổi và trẻ em.
Theo Lương y Võ Hà – Sức Khỏe & Đời Sống











Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

ÔN LẠI BÀI HỌC NHỊ THẬP TỨ HIẾU (24 NGƯỜI CON CÓ HIẾU)

BLOG CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
Home: 138 Đống Đa, Q. Hải Châu TP Đà Nẵng
Blog: chsbodelengoctam - Email: lengoctam138@gmail.com
ĐT: 0914.00.09.09 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108
Mong đón nhận các thông tin, hình ảnh của các bạn là cựu học sinh 
TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG




Gương 24 Người Con Hiếu Thảo
     Cây có cội, nước có nguồn, làm người ai cũng có Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ. Người Việt nam xem đây là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào, và không giờ phút nào lại không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục cù lao của Cha Mẹ :
"Công Cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

    Nhắc đến ơn Cha cao như núi, nghĩa Mẹ như nước chảy từ nguồn. Trong kinh xưa thường dạy : "Hiếu vi vạn hạnh chi tiên", trong muôn đức hạnh của con người, Hiếu là đức hạnh trọng yếu thứ nhất. Cha Mẹ, hy sinh tất cả đời sống của mình cho con, mong con khi khôn lớn sẽ trở thành người hữu dụng cho xã hội sau này :
"Công cha bao năm tình thương lai láng,

Nghĩa mẹ đậm đà, chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy gì đền đáp nghĩa khó khăn... ."

     Sau đây là 24 Tấm gương hiếu thảo của người xưa do Lý Văn Phức (1785-1849) lược dịch theo thể thơ song thất lục bát. Chúng tôi sẽ gửi đến các gia đình, đặc biệt các bạn thiếu nhi loạt phim Nhị Thập Tứ Hiếu “hoạt hình”, mỗi ngày một nhân vật.
 01- Ngu Thuấn : Hiếu Cảm Động Trời
     Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.
     Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không biện biệt được người hay kẻ dở, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẩu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn giữ trọn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán.
 2- Văn Đế : Tự Mình Nếm Thuốc
     Tên thật là Hằng, con người vợ thứ của Hán Cao Tổ Lưu Bang em cùng cha khác mẹ với vua Huệ Đế. Vi người vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen dữ tợn và sợ con của người vợ thứ sau này dành ngôi, nên không muốn cho Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều. Theo lời đề nghị của đình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng chức Đại Vương ở đất Đại.
 3- Tăng Tử : mẹ cắn ngón tay, tim con đau xót
     Tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ở ấp Vũ Thành thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò giỏi nhất của Khổng Tử. Tăng Tử được liệt vào hàng tứ phối, nghĩa là trong số bốn người, cùng được phối hưởng với Khổng Tử.
     Ông thờ cha mẹ rất hiếu thảo, bữa ăn nào cũng cố gắng tìm đũ rượu thịt cho cha mẹ dùng. Khi cha mẹ dùng bữa xong, còn thừa món ăn nào, ông hỏi cha mẹ cho ai thì ông vâng mà cho người ấy.
     Một hôm ông vắng nhà để vào rừng kiếm củi, có người khách đến chơi, mẹ ông muốn cho ông về ngay, nhưng không biết phải làm cách nào, liền cắn vào đầu ngón tay để động lòng con mình. Quả nhiên ở trong rừng ông cảm cảm thấy trong lòng quặn đau, vội vã gánh củi về nhà.
04- Mẫn Tử Khiên : Hiếu Với Mẹ Kế
     Tên chữ là Tồn, học trò Khổng Tử, sinh vài đời Xuân Thu, mẹ ông mất sớm, người cha có vợ khác và sinh hạ được hai con. Người dì ghẻ đối với ông vô cùng khắc nghiệt, nhưng ông vẫn một lòng hiếu thuận. Mùa Đông giá rét, hai con riêng của bà thì được mặc áo lót bông, riêng Mẫn Tử Khiên thì mặc áo độn hoa lau ở bên trong. Tuy không đủ ấm, nhưng ông chẳng bao giò hở môi.
     Một hôm, cha ông dạo chơi ông theo đẩy xe, vì quá rét, tay cóng lại rời tay xe ra. Cha ông thấy thế biết là người kế mẫu ác nghiệt để cho ông chịu rét lạnh, liền có ý định đuổi người đàn bà cay nghiệt kia đi Ông khóc lóc và kêu van với cha xin đừng đuổi kế mẫu đi. Vì người kế mẫu còn chỉ có mình ông chịu rét, nếu bà đi rồi, cả hai em chịu rét và khổ sở lây. Cha ông nghe theo, và người kế mẫu hiểu biết chuyện hiếu thảo của người con chồng, từ đó bà thay đổi cách cư xử và trở nên bậc hiền mẫu.
 
 05-Trọng Do : gánh gạo nuôi cha mẹ
     Trọng Do – Tử Lộ, người ở ấp Biện, thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng. Thờ cha mẹ rất có hiếu. Nhà nghèo, ông thường đi đội gạo đường xa hàng trăm dặm về nuôi cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, phải tìm các thứ rau về nấu canh dâng lên cha mẹ dùng tạm.
      Sau khi cha mẹ mất, ông sang nước Sở, được vua Sở trọng dụng, phong ban tước cao sang, cấp nhiều bổng lộc. Ông thường than phiền là không còn cha mẹ để được phụng dưỡng như xưa, để ngày ngày đội gạo, bữa bữa nấu canh rau. Khổng Tử thường khen Tử Lộ là người hiếu để và thận trọng từng hành vi.
 07- Lão Lai Tử : đùa giỡn cho cha mẹ vui
     Lão Lai Tử vốn người ở nước Sở, sinh vào đời Xuân Thu, đã 70 tuổi mà cha mẹ vẫn còn sống, ông thờ cha mẹ rất có hiếu.
    Không muốn cha mẹ thấy con già nua mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, rồi tay múa miệng hát trước mắt cha mẹ. Lại có khi bưng nước hầu cha mẹ, ông giả vờ trợt té rồi ngồi khóc oa oa trước mặt cha mẹ như trẻ nít mới lên 5, 3 tuổi vậy. Cha mẹ vui cười trước trò ngộ nghĩnh của con mình.
 08- Đồng Vĩnh : bán thân tổ chức tang cho cha
    Người đời nhà Hậu Hán, nhà tuy nghèo nhưng Vĩnh rất hiếu thảo. Khi cha chết trong nhà không tiền để lo việc ma chay cho ấm cúng, Vĩnh liền đến làng khác vay tiền một người nhà giàu, hứa sẽ dệt trả công 300 tấm lụa để trả vào số tiền mượn, số tiền công dệt lụa kia trội hơn gấp mấy lần tiền vay. Vay được tiền Đồng Vĩnh về lo việc tang ma cho cha xong xuôi, thu xếp việc gia đình định đến nhà người nhà giàu để dệt trả công.
    Dọc đường Đồng Vĩnh gặp người con gái cùng nhau hứa hẹn kết làm chồng vợ, nhưng hẹn dệt xong 300 tấm lụa, rồi sau sẽ thành hôn. Người con gái này giúp Vĩnh dệt xong 300 tấm lụa rất nhanh để trả món nợ cho người nhà giàu .
    Khi cả hai cùng trở về đến ngay chỗ gặp, người con gái lúc trước, nàng ấy biến mất. Đó là vì lòng hiếu thảo của Đồng Vĩnh động lòng Trời sai tiên nữ xuống giúp.
 
 09- Quách Cự : Chôn con nuôi mẹ
     Người đời nhà Hán, thờ mẹ chí hiếu, nhân khi cửa nhà sa sút, thường bữa ông thấy mẹ không dám ăn no, cứ bớt phần cơm để đưa cho con của ông mới vừa lên 3 tuổi ăn. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc: Mẹ già không đủ ăn, mà vợ chồng ta còn sinh đẻ được, nếu để con mình chia xẻ ngọt bùi của mẹ là không phải đạo.
      Thế rồi hai vợ chồng định đào hố chôn con đi. Khi hai vợ chồng đào hố xuống chừng được phân nữa, thì bỗng tìm thấy một hũ vàng, trên miệng có đề hàng chữ: Hiếu Tử Quách Cự, Hoàng Kim nhất hủ dung dĩ tứ nhữ. Nghĩa là: Người con hiếu là Quách Cự một hũ vàng đầy để cho nhà ngươi. Nhờ đó mà hai vợ chồng khỏi phải chôn con và có đủ tiền phụng dưỡng mẹ già.
 10- Khương Thi : suối chảy cá nhảy
     Hán Khương Thi có vợ là Bàng Thị, cả hai vợ chồng đều hiếu thảo. Mẹ chồng muốn uống nước sông, hàng ngày Bàng Thị phải đi thật xa, để gánh nước về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố tìm cho đủ đem về. Lại sợ mẹ ở một mình buồn bực, nên thường mời các bà bên cạnh đến chơi.
     Về sau, tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra giống như vị nước sông, hàng ngày lại có hai con cá chép đủ làm gỏi cho mẹ dùng. Từ đó, Bàng Thị và chồng không phải đi quảy nước xa, và kiếm cá nữa.
11- Thái Thuận : nhặt dâu cho mẹ
    Người đời nhà Hán, mồ côi cha từ thuở còn bé, nhà rất nghèo. Thái Thuận hết lòng thờ mẹ. Gặp năm mất mùa đói kém vì loạn lạc, Thái Thuận vào rừng tìm trái dâu về để ăn thay cơm. Được trái nào chín, Thuận để qua một bên, trái nào vừa đỏ để qua một bên khác.
  Gặp tướng Xích My đi ngang qua, trông thấy hỏi Thuận vì cớ nào lại phải lựa dâu để riêng ra như vậy. Thuận liền đáp: Trái nào chín ngọt dành phần cho mẹ tôi, trái nào đỏ còn chua, đó là phần của tôi. Tướng giặc khen Thuận là người con hiếu, liền truyền quân lính cho một thúng gạo và một đùi thịt trâu để khen thưởng.
 
12- Đinh Lan : Khắc tượng thờ cha mẹ
    Đinh Lan người đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, khi trưởng thành, nhớ công ơn cha mẹ, thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để thờ phượng. Ngày dâng hai bữa cơm, tối đến lại lo quạt màn, sửa soạn gối chăn, hầu hạ chăm nom in như hồi cha mẹ còn sống. Phụng thờ như vậy trong mấy mươi năm.
   Về sau, vợ Đinh Lan sinh chán nản, lại dùng kim châm vào kẻ tay tượng gỗ xem có gì lạ không. Không ngờ nơi ấy cứ nhỏ từng giọt máu tươi xuống mãi. Đến bữa, Đinh Lan bưng cơm vào cúng, nhìn thấy tượng gỗ rươm nước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Ông biết là vợ đã châm kim vào tay cha mẹ, liền đuổi bỏ người vợ ngay.

13- Lục Tích : Giấu quýt cho mẹ
     Người đời Đông Hán, từ lúc mới lên 6 tuổi đã biết hiếu thảo. Một hôm Lục Tích theo cha sang quận Cửu Giang viếng Viên Thuật. Họ Viên làm việc thết đãi, Lục Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy hai trái bỏ vào túi áo dấu.
   Đến khi chào Viên Thuật ra về, Vô ý để quít lọt ra ngoài. Viên Thuật nói đùa: Sao lấy quýt giấu như thế?. Lục Tích đáp ngay: Mẹ tôi thích ăn quít lắm. Nhân tiện trong tiệc có quít ngon nên tôi giấu vài quả đem về biếu mẹ tôi. Viên Thuật khen Tích là người con chí hiếu.

14- Giang Cách làm thuê nuôi mẹ
    Sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc còn bé, Giang Cách chí hiếu. Trong lúc loạn lạc họ Giang cõng mẹ lánh nạn, giữa đường gặp giặc toan bắt đi.
  Ông kêu van khóc lóc thảm thiết và cho biết còn mẹ già phải phụng dưỡng, nay nếu ông bị bắt đi thì mẹ già không người nuôi nấng. Thấy tình cảnh của Giang Cách đáng thương, giặc tha cho về. Giang Cách liền cõng mẹ chạy về Hạ Bì, cố hết sức làm thuê làm mướn để nuôi mẹ qua cơn loạn lạc.
15- Hoàng Hương : quạt gối ấm chăn
    Người đời Đông Hán, mẹ mất vào lúc mới lên 9 tuổi. Hoàng Hương gào thét và kêu khóc thảm thiết, người trong làng cho là con có hiếu. Thờ cha rất mực cung kính, sớm khuya hầu hạ, không dám lãng xao.
    Mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ vào chăn chiếu của cha để được truyền hơi nóng cho cha khỏi rét, đến mùa hè quạt màn gối của cha để cho mát mẻ luôn, nhờ đó mà cha được ăn ngon ngủ yên, quanh năm quanh năm vui vẻ không biết có mùa đông, mùa hè.
   Quan Thái thú ở quận ấy nhận thấy họ Hoàng là người con hiếu thảo, liền làm sớ tâu vua Hán. Hán đế ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng đề chữ là người con hiếu để.

16- Vương Thôi : nghe sấm khóc mộ
    Người nước Ngụy đời Tam Quốc, cha làm quan nhà Ngụy. Sau nhà Tây Tấn diệt nước Ngụy nhất thống thiên hạ. Cha Vương Thôi bị nhà Tây Tấn giết hại, ông quá thương xót, phủ phục trước mộ khóc mãi. Tương truyền nước mắt ông chảy quá nhiều, làm cho cây trắc bên mồ kkhô héo được tươi lại. Suốt đời Vương Thôi không bao giờ ngồi day mặt về hướng Tây, (vì Tây Tấn ở phương Tây) để tỏ ý chí cương quyết không bao giờ làm tôi cho nhà Tây Tấn.
     Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, cho nên khi mất rồi, hễ khi nào trời mưa có sấm chớp, ông lại ra mồ mà khấn rằng "Có con đây rồi cốt để cho mẹ khỏi sợ". Biết ông là người tài giỏi, nhà Tây Tấn nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông cương quyết khước từ, ở nhà mở trường dạy học. Mỗi khi ông giảng sách cho học trò đến thiên Lục Nga trong Kinh thi có câu: Phụ Hề sinh ngã ông nhớ đến cha rồi tự nhiên nước mắt tuôn rơi, học trò đều cảm động và bỏ thiên Lục Nga không dám đọc nữa.

 17- Ngô Mãnh : chịu muỗi thay cha mẹ
    Người đời nhà Tấn, lúc mới lên 8 tuổi đã biết thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, sợ cha mẹ bị muỗi đốt, Ngô Mãnh cởi trần nằm cho muỗi đốt mà chẳng dám xua đuổi, để cha mẹ được ngủ yên.
 
 18- Vương Tường : nằm băng chờ cá chép
    Người đời nhà Tấn, mẹ mất sớm. Vương Tường ở với cha, nhưng bị bà mẹ ghẻ rất sâu cay thường kiếm lời nói ra nói vào, khiến cho cha ông ghét bỏ. Nhưng ông không oán ghét bà mẹ ghẻ mà ăn ở rất có hiếu. Mùa đông, nước đóng lại thành băng, bà mẹ ghẻ đòi ăn cá tươi, ông cởi trần trên băng giá để tìm cá. Bỗng nhiên băng nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông bắt về làm món ăn cho kế mẫu.
     Trước lòng hiếu thảo chân thành của đứa con chồng, bà mẹ ghẻ hồi tâm và cha của Vương Tường cũng hết giận, từ đó hai người yêu mến đứa con như vàng.

 19- Dương Hương : giết hổ cứu cha
    Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, vừa 14 tuổi đầu đã tỏ ra chí hiếu, cha đi đâu cũng theo hầu một bên.
   Một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng nơi xa, gần vùng núi rừng, giữa đường gặp một con hổ chực nhảy đến vồ cha, Dương Hương cố liều chết, nhảy vào với đôi tay không quyết cùng sinh tử với con hổ. Ông đánh rất hăng, cuối cùng hổ hoảng sợ bỏ chạy, cha ông nhờ đó mà thoát chết.
 
 20- Mạnh Tông : khóc đến khi măng mọc
    Người ở đất Giang Hạ, về đời Tam Quốc, mồ côi cha, Mạnh Tông ở với mẹ rất có hiếu. Một hôm, bà mẹ của Mạnh Tông đau thèm ăn canh măng, nhưng bấy giờ là mùa đông, khó tìm ra măng.
    Ông đi vào trong rừng tre, ngồi bên gốc tre mà khóc. Bỗng đâu có mấy mục măng từ dưới đất mọc lên, quá mừng rỡ. Mạnh Tông mang về nhà nấu canh cho mẹ ăn. Ăn xong bà mẹ liền hết bịnh.
     Người ta cho rằng lòng hiếu động của Mạnh Tông, động lòng trời, nên măng mọc lên để cho ông được tròn chữ hiếu. Về sau này có một loại măng màu xám được đặt tên là Mạnh Tông, hình dáng trông rất đẹp và ăn ngon.

 21- Du Kiềm Lâu : nếm phân lo âu
    Cũng chép là Sứu Kìm Lâu Người nước Tề, được nổi tiếng là chí hiếu. Khi được bổ nhậm là Thái Thú ở quận Bình Lăng, đến nhậm chức được mười hôm, bỗng Kiềm Lâu thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy như tắm, biết là nhà có việc chẳng lành, liền xin từ chức. Về đến nhà, mới hay cha đau nặng đã hai ngày.
     Kiềm Lâu lại nghe thầy thuốc nói hễ người bệnh nặng mà phân đắng thì chữa khỏi, bằng trái lại phân ngọt thì khó chữa. Ông liền nếm thử phân của cha thì thấy ngọt, lòng vô cùng lo lắng đứng ngồi không yên. Đêm đêm ông đốt hương nhắm sao Bắc Đẩu mà khấn xin được chết thay cha. Sau ông nằm mơ thấy có một người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: Sắc trời cho bình an. Quả nhiên ngày hôm sau cha ông được khỏi bệnh ngay.

 22- Đường Thị : nuôi mẹ bằng sữa
     Đường Thị, vợ nhà họ Thôi, ở với mẹ chồng rất có hiếu. Mẹ chồng quá già rụng cả răng, không nhai được cơm. hàng ngày Đường thị phải tắm rửa thật sạch sẻ rồi cho mẹ bú. Nhờ đó mẹ chồng mấy năm liền không ăn mà vẫn được no.
     Cảm ơn nàng dâu hiếu để, mẹ chồng không biết lấy gì đền đáp, lúc sắp chết liền khấn nguyện trời phật cho con cháu nhà họ Thôi sau này người nào cũng hiếu thảo như Đường Thị vậy. Quả nhiên về sau con cháu dâu nhà họ Thôi người nào cũng bắt chước gương tốt của Đường Thị ăn ở hiếu thuận với nhà chồng. Họ Thôi nhờ đó được hưng thịnh.

 23- Châu Thọ Xương : bỏ chức quan tìm mẹ
     Châu Thọ Xương, người Tống, là con của người vợ thứ. Năm ông vừa lên 7 tuổi, người vợ cả đuổi mẹ ông đi. Về sau ông được làm quan nghĩ đến công sinh thành tác tạo của mẹ đang sống lưu lạc khổ sở, ông cảm thấy chua xót trong lòng.
     Ông liền xin từ quan chức để đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông thề rằng: Nếu không tìm được mẹ chết cũng đành. Tìm kiếm khắp nơi, may đến đất Đồng Châu mẹ con lại được trùng phùng. Tuy xa cách nhau đến năm mươi năm, mẫu tử được đoàn viên, ông lấy làm vui mừng. Ông liền rước mẹ về ở chung và phụng dưỡng tận tình.
 
 24- Hoàng Đình Kiên : tự tay rửa bô …
     Hoàng Đình Kiên, người đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái Sử, một chức quan coi về việc chép sử, thờ cha mẹ rất có hiếu.
     Tuy làm chức quan cao, nhà có nhiều đầy tớ hầu hạ, nhưng ông tự mình săn sóc đến những thứ cần dùng của cha mẹ. Những đồ dùng tiểu tiện của cha mẹ, dù dơ bẩn thế nào, ông cũng chính tay lau rửa và không bảo đầy tớ làm.
 

THẬP BÁT LA HÁN

 BLOG CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
Home: 138 Đống Đa, Q. Hải Châu TP Đà Nẵng
Blog: chsbodelengoctam - Email: lengoctam138@gmail.com
ĐT: 0914.00.09.09 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108
Mong đón nhận các thông tin, hình ảnh của các bạn là cựu học sinh 
TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG

Sự tích Thập Bát La Hán


    Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh. Tranh tượng Bồ-tát trình bày một thế giới trang nghiêm hương hoa nhã nhạc. Tranh tượng La-hán trình bày những nét sống động của các bậc Thánh hết sức hồn nhiên phụng hiến năng lực của mình…

1.  La Hán Tọa Lộc

Vắt chân ngồi tựa lưng Nai
Bỏ quên quá khứ vị lai mất rồi
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả, cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Nhân một hôm Tôn Giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn Giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội, Tôn Giả thường làm bậc Ứng Cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa Thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong ngài tuyên bố ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn, ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó ngài nằm mộng thấy một vị Hòa Thượng lông mày trắng nói:
- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn Giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.

2. La-hán Khánh Hỷ

Thảnh thơi trong chốn bụi hồng
nụ cười hỷ lạc cõi lòng thênh thang
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày, ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục, nên khi thuyết pháp ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấy một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn Giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 2, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).

3. La-hán Cử Bát

Tay dâng chiếc Bát ...lên trời
Để luôn phụng sự cõi đời lầm than
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn Giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn Giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa Thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa Thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn Giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
- Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật Tử chí thành đời sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ 3, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.

4.  La Hán Thác Tháp

Tay nâng bảo Tháp liên hoa
Như nâng vũ trụ trong tòa pháp Không
Tên của ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn Giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát”.
Đúng thật là Tôn Giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tịnh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn Giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tịnh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn Giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
500 năm sau Phật diệt độ, Tôn Giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ 4, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.

5.  La Hán Tĩnh Tọa

Tay ôm bình bát... Ngài ngồi
Vô tư...mà nhớ kiếp người mong manh
Tên của ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Đương thời của Tôn Giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục Tôn Giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn Giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn Giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
- Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.
Vua nghe Tôn Giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn Giả.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ 5, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.

6. La Hán Quá Giang

Nơi đâu vắng bóng Phật Đà
Ngài về hoằng hóa vượt qua khổ sầu
Tên của ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ ngài hạ sanh ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết, Tôn Giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn Giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn Giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn Giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.
Tôn Giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang tên La-hán Quá Giang.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 6, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.

7. La Hán Kỵ Tượng

Lần theo dấu vết chân Voi
Để nghe diệu pháp sáng soi nẻo về
Tên của ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn Giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn Giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo Tôn Giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn Giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn Giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ 7, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).

8.  La Hán Tiếu Sư

Vui đùa sư tử con ư ?
Ấy là La Hán Tiêu sư thật rồi
Tên của ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về phía Bắc tịnh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn Giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn Giả bảo mọi người rằng:
- Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn Giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn Giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán trụ ở châu Bát-thích-noa.

9. La-hán Khai Tâm

Vì đời còn lắm tham sân
Cho nên La Hán ...khai tâm để mà.
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử.
Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:
- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.
Nói xong, ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật Tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, Tôn Giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn Giả.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ 9, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.

10. La Hán Thám Thủ

Tọa thiền chỉ thấy ..Tâm thôi
Xả thiền thấy cả đất trời... nhẹ tênh
Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng Đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn Giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét.
Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn Giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.
Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ 10, ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.

11.  La Hán Trầm Tư

Phải chăng nhân thế trầm phù ?
Sao La Hán mãi...trầm tư thế này
Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, ngài cũng bình thản dọn ra khỏi phòng.
Sau khi chứng quả A-la-hán, ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng ngài là Mật Hạnh đệ nhất và chọn ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa Thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa Thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa Thượng kể lại thời Phật còn tại thế, ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa Thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 11, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.

12. La Hán Khoái Nhĩ

Tai nghe muôn tiếng khổ sầu
Được, mất ...mặc kệ, lo âu mà gì
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng Tôn Giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của Tôn Giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của Tôn Giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài cũng là vị La-hán thứ 12, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.

13. La-hán Bố Đại

Vai mang một túi ...tình thương
niềm vui trổ nụ trên đường độ sanh
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 – Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết, ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa Thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Nhân có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di Lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn Giả.
La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ-tát Di Lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 13, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.

14. La-hán Ba Tiêu

Ơ kìa La Hán Ba Tiêu
Hình như Ngài cũng ...đăm chiêu sự đời ?
Tên của ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, Yêu Long xin ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn Giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn Gả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của Tôn Giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ 14, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.

15.  La Hán Trường Mi

Ngắm đời ...ngắn ngủi trôi đi
Ấy là La Hán trường mi rất hiền
Tên của ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi”. Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.
Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị La-hán thứ 15, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.

16. La-hán Kháng Môn


Muốn vào được cửa Vô Môn
Dễ thôi, ... tẩy tịnh tâm hồn rồi qua
Tên của ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật Giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tịnh xá xem có sót người nào. Tôn Giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa Thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn Giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn Giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn Giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn Giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật Giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả là vị La-hán thứ 16, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.

17. La-hán Hàng Long

Rồng kia vùng vẫy mây trời
về đây thuần phục Ta ngồi ..oai phong
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn Giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn Giả không rời nước Sư Tử, ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn Giả xuất định, Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị bản: Tôn Giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.

18.  La Hán Phục Hổ

Hổ kia chúa tể sơn lâm
Mau mau đổi tánh chuyển tâm theo Ngài
Tên của ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.
Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành một A-la-hán thần thông tự tại, ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn Giả 3 lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng ngài người ta vẽ thêm một con hổ, ngài thành danh La-hán Phục Hổ.

La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.