BLOG CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
Home: 138 Đống Đa, Q. Hải Châu TP Đà Nẵng
Blog: chsbodelengoctam - Email: lengoctam138@gmail.com
ĐT: 0914.00.09.09 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108
Mong đón nhận các thông tin, hình ảnh của các bạn là cựu học sinh
TRƯỜNG TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
Sự
tích Thập Bát La Hán
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc
đời của các ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh. Tranh
tượng Bồ-tát trình bày một thế giới trang nghiêm hương hoa nhã nhạc. Tranh tượng
La-hán trình bày những nét sống động của các bậc Thánh hết sức hồn nhiên phụng
hiến năng lực của mình…
1.
La Hán Tọa Lộc
|
Vắt chân ngồi tựa lưng Nai Bỏ quên quá khứ vị lai mất rồi |
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa
賓頭盧頗羅墮
(Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua
Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập,
sau khi chứng Thánh quả, cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng
danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Nhân một hôm Tôn Giả dùng thần
thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở
trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật
pháp. Phật dạy Tôn Giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho
chúng sanh, vì thế trong các pháp hội, Tôn Giả thường làm bậc Ứng Cúng. Một lần
ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa Thượng lạ, tướng mạo
gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống
vui vẻ. Ăn xong ngài tuyên bố ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua
Lương Võ Đế, ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời
Đông Tấn, ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ
chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần
tích để chứng minh. Tối hôm đó ngài nằm mộng thấy một vị Hòa Thượng lông mày trắng
nói:
- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy
tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất
chính xác.
Tôn Giả Tân-đầu-lô là một vị
La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị La-hán thứ nhất, thường
cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
2.
La-hán Khánh Hỷ
|
Thảnh thơi trong chốn bụi hồng nụ cười hỷ lạc cõi lòng thênh thang |
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋
(Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen ngài là vị
La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia ngài là người rất tuân
thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho
phát khởi. Sau khi xuất gia, ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn
sâu dày, ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài thường đi du hóa khắp nơi
với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh.
Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ
địa ngục, nên khi thuyết pháp ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác,
giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn
trang, thấy một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ.
Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh
nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày
sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống
vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành
tựu đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân thật,
Tôn Giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị
La-hán thứ 2, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
3.
La-hán Cử Bát
|
Tay dâng chiếc Bát ...lên trời Để luôn phụng sự cõi đời lầm than |
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà
迦諾迦跋釐墮蛇
(Kanakabharadvāja). Ngài là vị đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng
Đông Thắng Thần Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la ở
Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn Giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai,
khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không
có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn
Giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để
thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ,
trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm
năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy
ngàn vị Hòa Thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên
có hai vị Hòa Thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi
lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca
ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn Giả chứng minh trai phạn. Thọ
trai xong, hai vị cười nói:
- Này các vị, 16 La-hán chúng
tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật Tử chí thành đời
sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một
cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị
La-hán thứ 3, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
4.
La Hán Thác Tháp
|
Tay nâng bảo Tháp liên hoa Như nâng vũ trụ trong tòa pháp Không |
Tên của ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp
người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn Giả ít khi đi theo đức Phật ra
ngoài, ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình
cách nói chuyện của ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà!
Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần
y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải
thoát”.
Đúng thật là Tôn Giả hiếm khi
lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng
quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước Án-đạt-la
muốn xây dựng một tịnh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng
đá lớn. Tôn Giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn
từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng
tôn trí trong tịnh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn Giả chỉ cần
nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui
mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
500 năm sau Phật diệt độ, Tôn
Giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng ngài được tạo
với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình
là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà
là vị La-hán thứ 4, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô
Châu.
5.
La Hán Tĩnh Tọa
|
Tay ôm bình bát... Ngài ngồi Vô tư...mà nhớ kiếp người mong manh |
Tên của ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ
hình tượng ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, ngài thuộc
giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết.
Khi theo Phật xuất gia, ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Đương thời của Tôn Giả, có ngoại
đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục
Tôn Giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn Giả khẳng
định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền
bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện
ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải
thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử
thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà
toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn Giả Nặc-cù-la
dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
- Đó chính là pháp tu không rốt
ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.
Vua nghe Tôn Giả giải thích mới
hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn Giả.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Nặc-cự-la
được xếp vào vị trí La-hán thứ 5, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam
Thiệm Bộ Châu.
6. La
Hán Quá Giang
|
Nơi đâu vắng bóng Phật Đà Ngài về hoằng hóa vượt qua khổ sầu |
Tên của ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ ngài hạ sanh
ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết, Tôn Giả rất
thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng
thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, ngài lại đi tắm, khi
lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa
thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần!
Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn Giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa
thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong
tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn Giả
hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng
bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà
Tôn Giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng
ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.
Tôn Giả cũng thường dong thuyền
đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang
tên La-hán Quá Giang.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị
La-hán thứ 6, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.
7. La
Hán Kỵ Tượng
|
Lần theo dấu vết chân Voi Để nghe diệu pháp sáng soi nẻo về |
Tên của ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi
Tôn Giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo ngài nên ở tại quê hương mình (Tích
Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Phật đến Tích Lan thuyết kinh
Lăng Già, Tôn Giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua
Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu
thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc
Sơn, và bảo Tôn Giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp
nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng,
con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á
bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn Giả hóa thành một con nai
hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều
đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn Giả một phen nữa hóa
thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên
ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn
từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch,
quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả
Ca-lý-ca là vị La-hán thứ 7, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại
Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
8.
La Hán Tiếu Sư
|
Vui đùa sư tử con ư ? Ấy là La Hán Tiêu sư thật rồi |
Tên của ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la
伐闍羅弗多羅
(Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất
tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn
10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất
gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn
quýt bên ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về phía Bắc tịnh xá Trúc Lâm có
ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường
đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn
phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn Giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu
Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn Giả
bảo mọi người rằng:
- Nước ao cạn khô vì mọi người
không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một
lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao
sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn Giả nói, ngưỡng
vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn Giả nên phát khởi lòng tin
Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng ta có
thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị
La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán trụ ở châu Bát-thích-noa.
9.
La-hán Khai Tâm
|
Vì đời còn lắm tham sân Cho nên La Hán ...khai tâm để mà. |
Hình tượng vạch áo bày ngực để
hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe
nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc
dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào,
thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên
thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào
dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y
làm đệ tử.
Sau khi xuất gia, trải qua bảy
năm khổ hạnh, ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất
gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:
- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn
đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.
Nói xong, ngài cắm cây sào xuống
đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc
tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật Tử
kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi
khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, Tôn Giả Thú-bác-ca liền vận thần
thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai
suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này
mãi nhớ ơn đức của Tôn Giả.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài
Thú-bác-ca là vị La-hán thứ 9, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương
Túy.
10. La
Hán Thám Thủ
|
Tọa thiền chỉ thấy ..Tâm thôi Xả thiền thấy cả đất trời... nhẹ tênh |
Hình tượng đưa hai tay lên rất
sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh
của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu
thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca lớn lên là một
thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn
có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng Đoàn, trở
thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ
đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc,
thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì
tình thương và trách nhiệm nên Tôn Giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận
ghét.
Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng
Thánh quả, chính Tôn Giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn
nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này
Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng
xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này
hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.
Hai tôn giả vâng lời Phật nên
thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả
Bán-thác-ca là vị La-hán thứ 10, ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
11.
La Hán Trầm Tư
|
Phải chăng nhân thế trầm phù ? Sao La Hán mãi...trầm tư thế này |
Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của
Thế Tôn, ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập
để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn
thua, phòng của mình bị người chiếm ở, ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua
đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, ngài lặng lẽ đến bờ
suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất, ít lâu
sau đòi lại đem cúng người khác, ngài cũng bình thản dọn ra khỏi phòng.
Sau khi chứng quả A-la-hán,
ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng ngài là Mật Hạnh đệ nhất và chọn
ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, ngài được
tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau Phật diệt độ, vua nước
Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người
xuất gia giảm sút. Có một Hòa Thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả thành
chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát
cháo nóng. Hòa Thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được
Hòa Thượng kể lại thời Phật còn tại thế, ngài cũng từng theo Phật đến đây khất
thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa Thượng tiết
lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật
pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị
La-hán thứ 11, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.
12. La
Hán Khoái Nhĩ
|
Tai nghe muôn tiếng khổ sầu Được, mất ...mặc kệ, lo âu mà gì |
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn
nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên
sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời
của ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện
thuyết. Nghe tiếng Tôn Giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân
phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại
cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam
truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của Tôn Giả Na Tiên mà
cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật
pháp.
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên
tu về nhĩ căn, tranh tượng của ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú
vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất
lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm
thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của Tôn Giả Na
Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài cũng là
vị La-hán thứ 12, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
13.
La-hán Bố Đại
|
Vai mang một túi ...tình thương niềm vui trổ nụ trên đường độ sanh |
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 – Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết, ngài là người
bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết
những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ
cao độ, nên ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, ngài thường
mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa Thượng Bố Đại ở
Trung Hoa.
Nhân có một người nước Ô-trượng-na
muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không
dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một
vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng
tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di Lặc.
Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng
chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ
đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn Giả.
La-hán là bậc bất sanh bất diệt,
đến đi tự tại, các ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có
hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ-tát
Di Lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị
La-hán thứ 13, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
14.
La-hán Ba Tiêu
|
Ơ kìa La Hán Ba Tiêu Hình như Ngài cũng ...đăm chiêu sự đời ? |
Tên của ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ ngài vào rừng viếng
cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật,
ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi
là La-hán Ba Tiêu.
Có lần, đức Phật hàng phục con
yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, Yêu Long xin ngài lưu
lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi
lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên,
Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận
lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm,
khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật,
Tôn Giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn Gả hóa
làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn
tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây
tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó,
vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng
hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ tư tại
thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của
Tôn Giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Phạt-na-bà-tư
là vị La-hán thứ 14, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
15.
La Hán Trường Mi
|
Ngắm đời ...ngắn ngủi trôi đi Ấy là La Hán trường mi rất hiền |
Tên của ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết
khi ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước ngài
là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, ngài phát triển thiền quán và chứng
A-la-hán.
Ngài cũng là một trong những thị
giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước
Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần
sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo
các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của thái tử không
cần uống thuốc cũng khỏi”. Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo
rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật,
vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa,
Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng
thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn.
Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp
hưng thịnh ở nước này.
Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn
Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên
núi.
Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị
La-hán thứ 15, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
16.
La-hán Kháng Môn
|
Muốn vào được cửa Vô Môn Dễ thôi, ... tẩy tịnh tâm hồn rồi qua |
Tên của ngài là Chú-trà-bán-thác-ca,
hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特
(Cullapatka). Truyền thuyết Phật Giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn
nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia ngài không tiếp thu được Phật
pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn
của Thế Tôn, ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự
kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn
bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một hôm đại thần Kỳ-bà thành
Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca
không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ
trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tịnh xá xem có sót người nào. Tôn Giả về Trúc Lâm
thì thấy cả ngàn vị Hòa Thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và
dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn Giả mừng
rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo truyền thuyết, khi đi khất
thực Tôn Giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối
rối! Về sau, Phật trao cho Tôn Giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để
khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng
chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn Giả, và là hình ảnh
quen thuộc trong sinh hoạt Phật Giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả là vị
La-hán thứ 16, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.
17.
La-hán Hàng Long
|
Rồng kia vùng vẫy mây trời về đây thuần phục Ta ngồi ..oai phong |
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật
diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần
thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị
Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn Giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng
hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế
gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu
trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của ngài được ghi chép lại thành bộ
“Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung
hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc
rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn Giả
không rời nước Sư Tử, ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian
thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn Giả xuất định, Ngài ôm bát xuống núi khất
thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã
tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó ngài thường xuất hiện khắp
nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng ngài vĩnh
viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị bản: Tôn Giả Nan-đề-mật-đa-la
là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
18.
La Hán Phục Hổ
|
Hổ kia chúa tể sơn lâm Mau mau đổi tánh chuyển tâm theo Ngài |
Tên của ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ
Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong
điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị
La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các ngài, thậm chí khi
ngủ cũng mơ thấy.
Một hôm trong khi đang chiêm lễ,
Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp
mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần
này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm
siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la
theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu
nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm
tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành một A-la-hán thần thông tự
tại, ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền
ra tay cứu giúp. Tôn Giả 3 lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi
đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng ngài người ta vẽ thêm một con hổ, ngài
thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán Hàng Long và La-hán Phục
Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền
thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.