TRANG THÔNG TIN CỦA LÊ NGỌC TÂM CHS BỒ ĐỀ (NK 67 - 74)
BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM
BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM
Blog: chsbodelengoctam - Smail: lengoctam138@gmail.come
LIÊN HỆ : LÊ NGỌC TÂM, 138 ĐỐNG ĐA, Q. HẢI CHÂU TP ĐÀ NẴNG
ĐT: 0914.00.09.09 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108
ĐÓN MỪNG XUÂN MỚI NĂM GIÁP NGỌ 2014
BAN LIÊN LẠC CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG
NIÊN KHÓA 1967 – 1974
KÍNH CHÚC TẤT CẢ QUÝ THẦY , CÔ GIÁO VÀ ANH CHI EM CHS/BỒ ĐỀ ĐN
SỨC KHỎE AN LÀNH AN TOÀN AN KHANG THỊNH VƯỢNG
Nhân dịp mừng xuân
Giáp Ngọ, Trân trọng Kính mời
Quý Thầy Cô; Là Giáo viên qua các thời kỳ
Các Anh Chị Em là cựu học sinh Trung học Bồ Đề qua các niên khóa;
Các bạn là CHS Trung học Bồ Đề (NK 67 - 74) Trong Nước và ở Nước ngoài
Thời gian: 15h00
ngày 06/02/2014 (Nhằm ngày Mồng 6 tết Âm lịch Xuân Giáp Ngọ)
Địa điểm: Nhà hàng Hải Phố, 85 Trần Cao Vân, Quận Thanh Khê TP Đà Nẵng.
Địa điểm: Nhà hàng Hải Phố, 85 Trần Cao Vân, Quận Thanh Khê TP Đà Nẵng.
Để dự buổi họp mặt thường niên lần thứ 24 của CHS TRUNG HỌC BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG (NK 1967 – 1974).
Kinh phí tổ chức: Do sự đóng góp của các bạn là CHS.BỒ ĐỀ thuộc liên lớp (NK 1967-1974).Và (Với ý nguyện để hình thành quỹ liên lạc, hiếu hỷ của lớp) BLL kêu gọi sự nhiệt tình, hổ trợ của
các bạn là mạnh thường quân trong Nước và Nước ngoài để buổi họp mặt thành công tốt đẹp trong tinh thần tương trợ và thân ái nhất.
Chân thành
được đón tiếp với mong muốn được hội ngộ những khuôn mặt thân yêu của
thời cắp sách đến trường để cùng nhau hoài niệm lại những năm tháng
của tuổi học trò với áo trắng quần xanh và Hân hạnh được gặp mặt, tri ân quý Thầy Cô giáo của một thời đã dạy dổ, truyền đạt để
chúng ta có được vốn kiến thức hoàn thiện cho cuộc sống như hôm nay.
(Liên hệ:
Chị B.Hoa – 0908.898.075. Ngọc Lan – 0909.095.099, Ngọc Tâm: 0914.00.09.09.)
Trân trọng được
đón tiếp
Ghi chú: Để chuẩn bị
cho tập kỷ yếu TM-BLL/CHS TH Bồ Đề ĐN (NK67 – 74)
Kỹ niệm 50 năm thành lập Trường.
Khi đi các bạn nhớ mang theo 2 LÊ NGỌC TÂM
tấm ảnh 3x4 nộp cho Ban liên lạc..
Blog: chsbodelengoctam - Smail: lengoctam138@gmail.come
Nguồn gốc tết nguyên đán
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm.Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tứctháng giêng. Từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng giêng (8 ngày).
Nguồn gốc Tết Nguyên đán ở nước ta
Truyền thuyết và lịch sử cho thấy: Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm Nhâm Tuất 2879 trước công nguyên, trị vì cả 2.622 năm. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết. Bắt đầu có bánh chưng, bánh dầy nhờ sáng kiến của Lang Liêu - con trai thứ 18 của vua Hùng Vương 6. Có thể nói, nước ta sớm hình thành một nền văn hoá truyền thống mang bản sắc riêng của người Việt. Nền văn hoá với những đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước, cùng những sản vật từ lúa gạo. Gạo - thứ thực phẩm chính nuôi sống con người, trong đó gạo nếp là thứ ngon nhất, thơm, dẻo, nhiều chất. Chính vì lẽ đó, gạo nếp được chọn để làm thành các thứ bánh dành cho việc cúng tế tổ tiên trong ngày đầu năm. Thực ra, cho đến nay, nói một cách chính xác dân ta ăn Tết bắt đầu từ khi nào không ai nắm rõ. Lịch sử Trung Hoa viết, từ thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên và Tích Quang - quan nước Tàu sang nước ta, truyền cho dân ta biết làm ruộng và các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có cả việc ăn Tết cổ truyền. Song thực tế đã chứng minh rằng: Trước khi người Trung Hoa sang đô hộ, dân tộc Việt đã có sinh hoạt văn hoá nền nếp và đặc sắc.
Thứ nhất:Vua Hùng không giống các vị hoàng đế Trung Hoa - nhất nhất theo Khổng giáo. Việc truyền ngôi cho con trai thứ 18 đã chứng tỏ sự khác biệt của dân tộc Việt với dân tộc Hoa. Thông thường các hoàng đế truyền lại ngôi cho vị hoàng tử cả nhưng Hùng Vương thứ 6 của nước Văn Lang không theo nguyên tắc đó, ông chọn người kế vị trị vì đất nước thay mình là người hiền đức, bất luận đó là cả hay thứ.
Thứ hai:Lang Liêu là một hoàng tử, đương nhiên phải là người được tiếp thu, thấm nhuần văn hoá dân tộc và tư duy theo cách của đồng bào mình. Theo đó, thấy rằng, dân tộc Việt ta có cách nghĩ thực tế hơn so với người Hoa. Bánh chưng vuông tượng trưng cho đất. Đất ở đây không có nghĩa là trái đất, mà là những mảnh ruộng vuông vắn - nơi người dân trồng cây lúa nước nuôi sống chính mình. Bánh giày tượng trưng cho trời tròn không có nghĩa là bầu trời hình tròn, mà là hệ vòng quay 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông liên tiếp. Người Hoa thường giải thích vạn vật qua những hệ số, bói toán trừu tượng, đôi khi như ma thuật rất xa xôi, khó hình dung.
Như vậy, có thể nói Tết cổ truyền của Việt Nam phải hình thành từ trước thế kỷ thứ nhất, không phải do người Hoa khai hoá hay đồng hoá.Tuy nhiên, do cùng nằm chung vùng lục địa, lại nằm kề nhau nên không thể không mang những ảnh hưởng của nhau. Sau này, khi Trung Hoa đô hộ nước ta nhiều năm liền những ảnh hưởng đó càng lớn hơn. Song về cơ bản bánh chưng, bánh giày là đặc trưng của dân tộc Việt. Trong ngày Tết cổ truyền có thể thiếu câu đối đỏ song không thể không có bánh chưng xanh để cúng tế tổ tiên.
Ngày nay, Việt Nam quy định viên chức và công nhân lao động được nghỉ Tết vào ngày 29 hoặc ngày 30 trước Tết và từ mùng Mộtđến mùng Ba (tổng cộng 4 ngày). Việt kiều sinh sống tại Âu Châu hay Bắc Mỹ hoặc chỉ giữ ngày mùng Một hoặc tổ chức Tết vào ngày cuối tuần gần nhất.
Ngoài ra, người ta thường nói "20 Tết", "15 Tết"... đây chỉ là nói những ngày ảnh hưởng do những công việc để chuẩn bị đón Tết hay dư âm còn lại của những ngày Tết.
Nguyên nghĩa của Tết chính là "tiết".Văn hóa Việt – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa như Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Bhutan, H'mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
(Sưu tầm & tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét