Cổng Làng Thế Vinh là địa phương nơi ngài Đặng Tất an nghĩ
PHẦN MỘ NGÀI ĐẶNG TẤT TẠI LÀNG THẾ VINH
ĐỀN THỜ NGÀI TẠI LÀNG THẾ VINH XÃ PHÚ MẬU HUYỆN PHÚ VANG THỪA THIÊN HUẾ
TOÀN CẢNH ĐỀN THỜ ĐẶNG TẤT TẠI LÀNG THẾ VINH
QUANG CẢNH MIẾU THỜ NGÀI VÀ CÁC TỘC BIỂU ĐANG TIẾN HÀNH LỄ
Nghênh đón Tượng NGÀI THƯỢNG ĐẲNG THẦN QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT |
Đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử
Diễn hành về Đền thờ Ngài ĐẶNG TẤT tại Làng Thế Vinh |
Nghênh đón bia ghi danh học vị của Tộc Đặng
Nghênh và đón rước tượng Ngài QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT |
Lễ dâng hương trước Đền Quốc Công Đặng Tất |
Hương án dâng hương
Ông LÊ NGOC TÂM, Thân mẫu và gia đình |
Ông Lê Ngọc Tâm và gia đình trưởng nam Lê Ngọc Báu |
Bác LÊ NGỌC DỰ (Nguyên Tộc trưởng ) và Bác NGUYỄN VĂN TÙNG Trưởng Tộc NGUYỄN tại buổi lễ |
Cùng toàn thể nhân dân Làng Thế Vinh trong ngày hội Làng tế hằng năm ngày 16/7/Âm lịch |
Đại diện Đặng tộc Ông Đặng Văn Phước và Ông Lê Ngọc Tâm đại diện Lê Ngọc tộc Làng Thế Vinh nhận Bằng xếp hạng di tích |
Nguyên Tộc trưởng Lê Ngọc Tộc (Ông LÊ NGỌC DỰ)
Tượng Ngài QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT |
Thân Mẫu và Hiền Thê của Ông Lê Ngọc Tâm |
Ông LÊ NGỌC THUẬN (Chú ruột Ông Lê Ngọc Tâm) |
Diễn hành rước Bằng xếp hạng về Đền Ngài tại Làng Thế Vinh Xã Phú Mậu Huyenj Phú Vang - Thừa Thiên Huế |
Rước hoa về Đền thờ của Quốc Công Đặng Tất |
An vị Bằng xếp hạng di tích bên trong đền thờ Ngài Quốc Công Đặng Tất |
Bia vinh phong học vị của Đặng tộc |
Ông Lê Ngọc Tâm và Thân mẫu trước bàn thờ lễ tế |
Ông Lê Ngọc Tùng bào đệ của Ông Lê Ngọc Tâm và Thân Mẫu |
Toàn ban nghi lễ Tế Làng tôn nghiêm trước mộ phần của Quốc Công Đặng Tất trước giờ lễ Tế Làng hàng năm (16/7/ÂL) |
Linh vật lễ tế Làng |
Ông Lê Ngọc Tùng dâng hương trước tượng Ngài
Ông Lê Ngọc Tâm đại diện Lê Ngọc Tộc Làng Thế Vinh trước bàn thờ Ngài
Nghênh đón Bà con tộc họ và Thập phương dâng hương |
Bà quả phụ Nguyễn Thị Chanh trước phẩm lễ kính dâng hương linh Ngài
Bà quả phụ Nguyễn Thị Chanh trân trọng kính dâng hương cùng phẩm lễ nhân ngày lễ làng tế ngày 16/7/Âm lịch năm Nhâm Thìn |
Thân mẫu và hiền thê ông Lê ngọc Tâm tôn kính dâng hương trước tượng Ngài
Ông Lê Ngọc Tâm cùng thân mẫu và gia đình |
Ông Lê Ngọc Tâm cùng thân mẫu và gia đình |
Cùng gia đình trưởng nam Lê Ngọc Báu
ÔNG NGUYỄN VĂN TÙNG (Tộc trưởng tộc NGUYỄN) tại Làng Thế Vinh
Bác Lê Ngọc Dự nguyên tộc trưởng Lê Ngọc Tộc và Trưởng tộc Nguyễn Ông Nguyễn Văn Tùng
Bác LÊ NGỌC DỰ (Nguyên Tộc trưởng Lê Ngọc Tộc) xúc động trong ngày nhân bằng xếp hạng di tích
Ông Lê Ngọc Tùng
Ông Lê Ngọc Châu (Ban tổ chức lễ) và Ông Thái Quang Dũng (Trưởng thôn Thế Vinh)
Ông Lê Ngọc Tâm và Ông Lê Ngọc Châu
Ông Lê Ngọc Tâm và Ông Thái Quang Dũng (Trưởng Thôn Thế Vinh)
Ông Chủ tịch Xã Phú Mậu đọc diễn văn trong lễ đón nhận Bằng di tích lịch sử Miếu thờ và phần mộ Quốc công Đặng Tất
Ông Lê Ngọc Dự và Ông Lê Ngọc Tâm
trong lễ nhận bằng xếp hạng
Lễ nhận bằng tôn vinh của Đặng Tộc
Chụp hình lưu niệm cùng các đại diện Làng Thế Vinh
Ông Đặng Văn Phước (Đại diện Đặng tộc) và Ông Lê Ngọc Tâm (Đại diện Lê Ngọc tộc)
chụp hình lưu niệm
Chụp hình lưu niệm
Ông Đặng Văn Phước (Đại diện Đặng tộc) và Ông Lê Ngọc Tâm (Đại diện Lê Ngọc tộc) An vị Bằng xếp hạng bên trong miếu thờ ngài ĐẶNG TẤT
BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ, LƯU NIỆM DANH NHÂN, MIẾU THỜ ĐẶNG TẤT
Đặng Dung, người mài gươm dưới trăng
Đặng Dung (? – 1414) được hậu thế
biết đến không chỉ đơn thuần là một danh tướng thời Hậu Trần, mà còn là tác
giả một bài thơ nổi tiếng đã để lại trên văn đàn một tiếng vọng suốt mấy trăm
năm.
|
Đặng Dung là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An; nay là
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất, một
tướng tài, đã khôi phục lại đất nước bị quân Minh chiếm đóng tới vùng Ninh
Bình.
Dưới thời nhà Hồ, ông giúp cha là Đặng Tất cai quản đất Thuận Hóa.
Sau khi quân Minh đánh chiếm nước ta - khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu, nhà Hồ
sụp đổ, hai cha con ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (tức Giản Định
Đế).
Năm 1409, sau trận đại chiến với quân Minh ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ,
huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), hoạn quan Nguyễn Quỹ đã gièm pha
rằng Đặng Tất chuyên quyền. Giản Định Đế đem lòng ngờ vực, giết Đặng Tất và
Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Giản Định Đế, cùng con của Nguyễn Cảnh
Chân là Nguyễn Cảnh Dị rước Trần Quý Khoáng (hay Trần Quý Khoách, theo Trần
Trọng Kim trong Việt Nam sử lược) từ Thanh Hóa về đất Chi La - nay là huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, tôn làm vua (tức Trùng Quang Đế).
Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng để chống quân
Minh, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp
vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng.
Đặng Dung, dù phải chiến đấu dưới quyền kẻ đã giết cha mình, nhưng
vì sự nghiệp chung ông đã vượt lên trên tất cả. Từ đó ông trải qua rất nhiều
trận giao chiến với quân Minh và kết thúc sự nghiệp võ tướng của mình trong
trận đánh cuối cùng vào năm Quý Tỵ (1413) ở khu vực Thái Gia. Về trận này, Trần
Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, có chép như sau:
“Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể
chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao
lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải
giải về Yên Kinh (Trung Quốc) cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể
tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật
hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng.
Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không
thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho
người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh...”.
Đặng Dung đem quân giúp vua Trùng Quang Đế gặp lúc lòng người ly
tán, binh ít, lương thiếu, cuối cùng đã thất bại. Ông chạnh lòng làm bài Thuật
hoài (hay Cảm hoài), một bài thơ tự sự thất ngôn bát cú Đường luật, thể hiện
chí khí của mình. Gần 600 năm qua, bài thơ đã đi vào đời sống dân gian với hai
câu đã trở thành triết lý: Thời lai đồ điếu thành công dị,/ Vận khứ anh hùng ẩm
hận đa. (Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,/ Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay – Phan
Kế Bính dịch thơ). Hai câu kết như là dấu chấm than khi chí lớn chưa thành mà
tuổi già đã vội xộc đến: Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,/ Kỷ độ Long tuyền đới
nguyệt ma. (Thù trả chưa xong đầu đã bạc/ Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài –
Nguyễn Lân dịch thơ).
Những bài thơ sáng tác vào thời Trần thường thể hiện sự khẳng định
nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Thuật hoài, bài thơ duy nhất
còn lại của Đặng Dung, được chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn là một
trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ấy. Lý Tử
Tấn, một danh sĩ thời Lê, nhận xét: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng!” [Nếu không
phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi (bài thơ này)!].
Người anh hùng lưu lại hậu thế bài thơ ngút ngàn tình yêu đất nước
với hình tượng “mài gươm dưới trăng” bất hủ. Ở Đà Nẵng, tên ông đã được đặt cho
con đường dài 220m, rộng 6m (ảnh), nối đường Âu Cơ đến đường Vũ Ngọc Phan
(phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu) theo Nghị quyết số 28/2003/NQ/HĐND ngày
11-1-2003 của HĐND thành phố về đặt tên đường ở Đà Nẵng.
CHÂN DUNG TỂ TƯỞNG ĐẶNG DUNG |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét