Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

NHÂN NGÀY GIỔ TRỊNH CÔNG SƠN BÀN VỀ CHỮ NHÂN TRONG NHẠC TRỊNH

Trịnh Công Sơn (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001)

Chữ “NHÂN” trong dòng nhạc Trịnh Công Sơn 

Ngày đăng bài Thứ Bảy, ngày 31-3-2012
     Tâm thức mỗi người Việt Nam ta đều tiềm tàng ít nhiều những cảm thức minh triết, tôn giáo hoặc niềm tin vào Trời, tín ngưỡng phồn thực, thờ cúng Tổ Tiên, vạn vật hữu linh… Đặc biệt ảnh hưởng của các dòng tư tưởng Nho gia, Đạo gia, Phật giáo, Kitô giáo… đã đâm rễ sâu vào nền văn hóa, kiến trúc, nếp nghĩ suy và lối ứng xử của Việt tộc. Văn hóa truyền thống của nước  Việt được hình thành và phát triển dựa vào những thành tố trên cộng sinh với các yếu tố khác như: lịch sử, địa lý, thổ nhưỡng, chủng tộc, …
     Nhạc của Trịnh Công Sơn là một minh họa cho tính tương tác về tư tưởng của các nhân tố kể trên. Việc tìm hiểu quan điểm “Nhân” trong dòng nhạc Trịnh đã tạo niềm say mê cho bản thân, đồng thời được nhiều bằng hữu khích lệ. Do đó, người viết mạnh dạn tìm tư liệu về nhạc sỹ qua tiểu sử và các nhạc phẩm phổ biến…
Bài viết này hình thành do tấm lòng yêu mến và kính phục đối với nhạc sỹ. Kính mong nhận được sự đồng điệu, đồng cảm và quảng đại của chính nhạc sỹ quá cố, thân nhân của ông và quý độc già yêu thích nhạc Trịnh. Vì chỉ là ý kiến cá nhân, nên xin mọi người thông cảm cho sự hạn chế của bản thân người viết…. Chân thành cảm ơn trước.
1. CON NGƯỜI TÌNH CẢM VÀ GIÀU LÒNG TRẮC ẨN
a. Tình yêu nam-nữ: phải thú thật, nhạc sỹ là bậc thầy trong việc dùng từ  để mô tả những cảm xúc thăng hoa, đau khổ, khát khao, chờ đợi của người “đã biết yêu”. Những ca từ để mô tả hoặc ca ngợi nét đẹp của tình nhân thật lãng mạn, đầy hình tượng, giàu cảm xúc và luôn mới mẻ. Bài “Cúi xuống thật gần” cho ta thấy cảm xúc thăng hoa đang khi say men tình:
“…Cúi xuống
 Cúi xuống thật gần
 Cho chiếc hôn ngọt nồng
 Cho trăm năm ưu phiền phút chốc hư không
 Cúi xuống
 Cho tình dấy lên
 Cho da thịt mềm
 Cho cơn mặn nồng ngất lịm …”


Trong bài “Diễm xưa” ông viết về nỗi nhớ mong “trong cơn đau vùi!” với “hằn lên nỗi đau”
“Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau …”
hoặc ở tác phẩm “Cuối cùng cho một tình yêu” có đoạn nói về nỗi “sầu đầy” đến nỗi “xin thôi đầy” vì “đã đầy” (tôi cảm nhận như có “sắc sắc-không không” ở ý từ này)
“Sầu xuống thôi đầy, làm sao em nhớ
Mưa ngoài song bay, lời ca anh nhỏ, nỗi lòng anh đây
Sầu thôi xuống đầy
Sầu thôi xuống đầy...
     Còn trong bài “Chiều một mình qua phố” tác giả diễn tả về nỗi buồn vắng bóng người yêu, thê thiết đến độ “nắng khuya chưa lên, hoàng hôn chưa tới” mà “tím” cả một loài hoa!!! Hoặc rệu rã bước chân gọi buồn vì nhớ!
“Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em
Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím
Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em
Gót chân đôi khi đã mềm gọi buồn cho mình nhớ tên…. “
 b. Tình yêu quê hương, đất nước, dân tộc Việt Nam
-  Đối với quê hương và đất nước: Ông cũng đau lòng và lo sợ cho việc phân cách và ly tán của nước Việt, tâm tư này ông gởi vào trong bài “Biển nghìn thu ở lại”.
Biển đánh bờ,
Xôn xao bờ đánh biển
Đừng đánh nhau … ơi biển sẽ tàn phai
Đừng gạch tên vì yêu đừng xé nát... 
để nói lên cảm xúc xót xa cho cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt của dân tộc Việt Nam, ông Trịnh đã có một kho các ca khúc da vàng hay nhạc phản chiến. Lời của ca khúc “Cho một người nằm xuống” như một điếu văn cho một người lính phi công tử trận. Ý từ và nhạc của bài hát này chua chát, hư vô và “buồn thay cho người xấu số” làm sao ấy:
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn  đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không!
Bạn bè còn đó anh biết không anh?
Người tình còn đó anh nhớ không anh?
Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên
Khi bóng anh như cánh chim chìm xuống … 
Ông đã gọi quê hương-dân tộc Việt Nam là Mẹ và kêu gọi mọi người dân Việt hãy nhớ lại cội nguồn của mình, hãy ăn năn nếu trong cuộc đời ai đó đã có lúc làm cho quê hương bị chiến tranh, đồng bào bị ngục tù phi lý … những tâm tình trên và cò nhiều cảm xúc thương yêu Việt Nam khác của ông đã được gửi gấm vào các tác phẩm âm nhạc. Tôi xin trích dẫn bài “Ca dao Mẹ” để dẫn giải cho nhận định trên. 
1.  Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa võng buồn
  Mẹ ngồi ru con mây qua đầu ghềnh lạy trời mưa tuôn
  Lạy trời mưa tuôn cho đất sợi mềm hạt mầm vun lên
  Mẹ ngồi ru con nước mắt nhọc nhằn xót xa đời mình. 
2.      Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn
  Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn
  Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân
                                                      Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người 
ĐK: mẹ ngồi ru con tiếng hát lênh đênh
      Mẹ ngồi ru con ru mây vào hồn
      Mẹ dạy cho con tiếng nói quê hương
      Mẹ nhìn con đi phút giây bàng hoàng. 
3.      Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa phận mình
  Mẹ ngồi ru con nghe đất gọi thầm trọn nợ lưu vong       
  Mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương
  Tuổi còn bơ vơ thế giới hằn thù chiến tranh ngục tù. 
c. Con người giàu tình người:Tôi thật thích thú khi đọc được hai câu nói về tâm tình “đạo hiếu” của ông đối với hai đấng thân sinh, trong bài “Có nghe đời nghiêng”
                … Tạ ơn hoa sáng thơm cho mẹ
                     Tạ ơn chim chiều hót cho cha …”
      Trong bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” ông “nhặt gió trời mời em giữ lấy, để mắt em cười tựa lá me bay …” hay ông chọn đường để đến anh em, đến bạn bè … có yêu thương mến nhau thì mới đến với nhau, nhưng cái hay của ông ở chỗ: khi ông đến vì yêu thương anh em thì chính là lúc ông “sống vui từng ngày” ông nhìn thấy được sự hiện diện của chính ông là “đến trong cuộc đời” và “đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi”:
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay
 Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi
Đường đến anh em đường đến bạn bè
Tôi đợi em về bàn chân quen quá
Thảm lá me vàng lại bước qua
 Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi … 
     Ông đau buồn cùng người khi có sự sinh ly tử biệt, đặc biệt là cái chết của con người do chiến tranh. Trong bài “Ngụ ngôn mùa đông”, cái chết bi đát và thảm thương “không chỉ một lần” của những đồng bào đã được ghi lại rõ ràng như là lời kể của một nhân chứng lịch sử:
… Một ngày mùa đông – trên con đường mòn – một chiếc xe tang – trái mìn nổ chậm – người chết hai lần - thịt da nát tan.
Một ngày mùa đông – hai bên là rừng - một chiếc xe tang – trái mìn nổ chậm – người chết hai lần - thịt da nát tan.
Một ngày mùa đông - một người Việt Nam - thôi ra dòng sông – súng nổ thật gần – tiếng đạn đầy hồn - từ đó bâng khuâng - nhớ thưở mẹ bồng – lời ru trong sáng – nhớ mẹ hiền lành - ngồi với đàn con.
Một ngày mùa đông - một người Việt Nam - thôi lên đồi non - súng từ thị thành - súng từ ruộng làng - nổ xé da non - phố chợ thật buồn - cuộn dây gai chắn - chắc mẹ hiền lành - rồi cũng tủi thân.
2. NHÂN SINH QUAN VÀ TRIẾT LÝ
a. Nhân sinh quan: thính giả có thể nhận ra nhân sinh quan của Trịnh Công Sơn là “yêu đời và yêu người một cách lạc quan” cho dù đời có nhiều ngang trái, phi lý hoặc dả, người có lắm tàn bạo, hành động thất nhân tâm! Ông khóc cho người đã chết, buồn với người chịu cảnh sinh ly tử biệt, trong bài “cúi xuống thật gần” ông viết:

“Cúi xuống - nghe đời nhấp nhô - nghe tim rạn vỡ - nghe trong tuổi nhỏ khóc òa
 Cúi xuống - trên bờ xót xa - trên cơn lửa đỏ - trên khuôn mặt đã im lìm …”
Qua bài “Còn thấy mặt người”, nhạc sỹ kêu gọi mọi người lạc quan yêu đời và biết ơn đời để sống tốt hơn:
Mặt trời mặt trời đã lên
Một ngày một ngày đã qua rồi
Từng vùng từng vùng nắng trong
Một ngày một ngày biết ơn đời …
 Từng ngày thấy mặt trời
 Thấy mọi người òng đã thấy vui
                      Từng đêm tối ngồi chờ đợi
                      Từng đêm tối ngồi chờ đợi
                     Cho từng sớm mai thấy lại mặt người
        Ông là người yêu hòa bình, ông kêu gọi người Việt Nam hãy yêu thương nhau vì tình cảm da vàng máu đỏ, vì nghĩa đồng bào, Ông Trịnh còn là người rất trân trọng và thấm nhuần văn hóa truyền khẩu bình dân Việt Nam. 
b. Triết lý của Trịnh Công Sơn: qua các tác phẩm của ông, tôi thấy ông mô tả tình cảm, cảm xúc, của con người bằng những từ đầy hình tượng, nhân cách hóa của thiên nhiên vũ trụ, đồng thời ông cũng nói lên sự liên đới giữa tình trạng sướng-khổ của con người với sắc thái nở rộ hay úa tàn của muôn hoa, xanh biếc hay ủa sầu của cỏ cây. Có khi phủ cả khăn tang lên đồi núi, đồng bằng. Qua bài “Về trong suối nguồn”: 
Quê hương trẻ mãi như tâm hồn thiên nhiên
Em đi qua đó không bao giờ muộn phiền
Xanh xanh cây lá biển hát chiều mưa.
Quê hương nằm thức bên bờ biển bao la,
Sau cơn chinh chiến núi non vẫn mượt mà,
Bay đi trong mưa nắng những câu chuyện thần tiên.
Từ nghìn xưa lúa reo trên đồng,
Lời ca dao hát trong nhân gian,
Tình nhẹ như cánh chim cò trắng
Chở chiều vàng đi đã bao nghìn năm.
Tìm về trong suối nguồn,
Trái tim bốn mùa vẫn dịu dàng ngân,
Bao nhiêu mùa gió bay trong lòng quê hương,
Mang qua bao thôn xóm những câu chuyện ngày thường,
Cho em yêu mãi nhé những tâm hồn cỏ non.
 Những điều đã trình bày trên dẫn đến vài nhận định sau:
     -  Ông Trịnh là học trò của Đức Khổng Tử, vì tư tưởng chủ đạo của Đức Khổng là “hữu vi”, xây dựng một xã hội “nhân hòa” người với người sống để thương nhau. Lý tưởng trên đã được ông Trịnh gửi gấm vào lời bài hát để vận động cho tình yêu thương giữa người với người, nhắm đến một xã hội hòa bình – hạnh phúc – yêu thương nhau.
-  Ông cho rằng con người và thiên nhiên có mối liên hệ khắng khít hữu cơ, thiên nhiên vốn dĩ hài hòa tốt đẹp, sự hài hòa này nhằm mục đích cho con người được hưởng môi trường sống hòa bình, mạnh khỏe và yêu thương nhau. Khi con người không còn yêu thương nhau nữa thì chiến tranh xảy ra, mà đã có chiến tranh thì hậu quả là tàn phá và chết chóc, những gãy đổ trong tương quan giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Sự suy yếu về tương quan này khiến thiên nhiên bị tàn phá. Đây là một cái nhìn rất tích cực đáng cho ta suy nghĩ thêm (xin tham khảo thêm bài: Đóa hoa vô thường, Có nghe đời nghiêng, Cũng sẽ chìm trôi, Dấu chân địa đàng)
-  Nhạc sỹ có lối nhân cách hóa thiên nhiên rất sống động, khiến tôi nghĩ ông thích triết lý “vô vi” của Lão tử, các bài Biển nghìn thu ở lại, cánh chim cô đơn, … như bộc bạch điều này.
     -  Thế nhưng, dường như Trịnh Công Sơn vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa thỏa cho cuộc đời của ông, còn thiếu cái gì đấy! Do đó, nhạc sỹ thao thức trăn trở tìm kiếm đáp án cho những vấn đề của kiếp người (nguồn gốc, cùng đích, mai hậu, cái chết, đời sau … Xin độc giả nhớ đến các bài hát: Cát bụi, Còn có bao ngày, Còn mãi tìm nhau, Tử biệt, Chuyện đóa quỳnh hương, Con mắt còn lại, dã tràng ca 1, Một cõi đi về, Phúc âm buồn …
3. THAY LỜI KẾT
       Tình cảm trong dòng nhạc Trịnh thật đa dạng, bao hàm cả tình yêu nam nữ, tình gia đình, tình đồng bào, tình yêu đất nước lẫn tình yêu hòa bình, yêu đời hiện sinh. Đàng khác, nhạc sỹ theo cả chủ thuyết hữu vi của Đức Khổng và quan điểm vô vi của Lão Tử, và khuynh hướng minh triết cũng tỏ hiện khá đậm nét trong ca từ.
Chúng ta tạm tóm kết vài ghi nhận sau:
     Trịnh Công Sơn chịu ảnh hưởng rất sâu tư tưởng Khổng, với nhân, lễ, nghĩa, trí, tín – tam cương và công, dung, ngôn, hạnh – tam tòng, nhưng lại không trực tiếp đề cập đến trong các tác phẩm để đời. Chúng ta chỉ thấy tác giả cổ vũ cho đất nước thanh bình, xã hội an hòa -công bằng-đoàn kết và phát triển hài hòa bền vững. Ông bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc với cảnh sinh ly tử biệt, nồi da xáo thịt, gia đình tan đàn xẻ nghé, người với người sống mà không yêu nhau. Đồng thời, ông lại cổ vũ và động viên thính giả: hãy yêu đời, hãy yêu thương nhau. Nhìn từ quan điểm lý thuyết của Khổng Tử, thì có thể nói người nhạc sỹ họ Trịnh quả là một “học trò cưng” của Đức Khổng ở thế kỷ XX này, qua việc “cổ vũ xây dựng nhân hòa”.
      Nhưng nhạc sỹ này không dừng ở lý tưởng nhân hòa, vì những thắc mắc mang tính triết học và tôn giáo khiến tác giả nên như “kẻ lang thang” và “thiền nhân yêu đêm” suốt cả đời (đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!). Cả đời nhạc sỹ không ngừng khắc khoải tìm kiếm nơi cuộc đời, nơi tư tưởng các tôn giáo, trong đêm qua dòng thiền …
      Thiết nghĩ ông hiểu - biết khá rõ về các tôn giáo, nhưng dường như vẫn chưa chọn được bến đỗ. Trong các tác phẩm để lại, ông tả hình bóng của Lão Tử với: vô vi – đất trời – vạn vật – trường tồn cùng núi sông … chứ không ngưỡng vọng về Thiên đàng, niết bàn hoặc một nơi cực lạc vĩnh phúc.
      Thế giới ta đang sống được xem như một ngôi làng, xã hội và con người chịu tác động của môi trường đa nguyên, đa diện, đa văn hóa, đa tôn giáo. Do đó, mỗi người ít nhiều, minh nhiên hay mặc nhiên thuộc về hoặc thiên về một niềm tin hay dòng tư tưởng lớn nào đó. Thế nhưng, tôi ngạc nhiên khi thấy NS Trịnh Công Sơn - nhà trí thức, một tài năng âm nhạc của Đất Việt, một triết nhân, một con người của công chúng đương đại … - lại rất “truyền thống Nho gia” (ý tôi nói là “nho gia quy ẩn”).
     Quả vậy, một Nho gia khi gặp thời thì đem tài, trí, chí, đức, tâm để giúp đời; họ thường đảm nhận những vai trò lãnh đạo ở chính quyền hay một tổ chức nào khác. Nhưng “vị Nho gia” đang được nói đến lại không làm chính trị, nên qua các tác phẩm, chúng ta chỉ thấy ông là một con người có lối sống giản dị, ẩn dật, thích thiền, yêu thiên nhiên vạn vật vì yêu vô vi, yêu con người và cuộc đời vì hữu vi, thích nghiền ngẫm suy tư về cuộc đời.

Thêm chú thích










Thêm chú thích


Thêm chú thích



Thêm chú thích

Thêm chú thích


Thêm chú thích



Thêm chú thích


Thêm chú thích

Với Nguyễn Trọng Tạo
Với Tiến sĩ FRANK GẺKE


Với nhạc sĩ VĂN CAO

Thêm chú thích




Với người tình của 300 lá thư DAO ÁNH





Thêm chú thích


Thêm chú thích







Thêm chú thích






Với Ca sĩ KHÁNH LY

Với Văn Cao

NS PHẠM DUY trước bàn thờ TCS


Với Hồng Nhun

TCS 300 thư tình Với DAO ÁNH  







Người tình NGA MI.. TCS











Dưới trăng với nhạc sĩ VĂN CAO












Với nhạc sĩ PHẠM DUY


Với nhà thơ BÙI GIÁNG









Thêm chú thích
Thêm chú thích