CỰU HỌC SINH BỒ ĐỀ ĐÀ NẴNG NIÊN KHÓA 1967 - 1974
Blog: chsbodelengoctam - Smail: lengoctam138@gmail.com
ĐT liên lạc: 0914.000909 - 0919.956515
|
Các bạn đi tham quan Hội An Trái qua đứng: Lưu văn Linh, Bích Ngọc, Ngọc Lan, Thị Hạnh, Trần Thị Chờ, Bạn Thanh Sài Gòn ra họp lớp, Hà Hiếu, Nguyễn Văn Mai . Nằm Đặng văn Thuyên, Thu Thủy, Nguyễn Thị Chua, Nguyễn Quang Minh |
Nỗi Buồn Nhớ Quê Hương ( Ca sĩ Khánh Ly)
Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn,
nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu. Không yêu Sài Gòn nhiều
lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế. Huế nghèo. Thành phố chỉ có vài con đường chính.
Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ lòng lạnh ra. Dường như Huế
chỉ thực sự huyền ảo, đẹp, nên thơ bời những nghệ sĩ khi viết về quê hương của
mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình đã
được sinh ra. Âu cũng không phải là điều làm cho ta ngạc nhiên.
Nhưng không phải vì những điều người
Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì nếu như vậy thì tôi phải yêu Hà Nội
nhiều hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn nhiều hơn, phải yêu Đà Lạt hơn mới phải.
Vậy mà tôi yêu, thỉnh thoảng gặp lại một vài người bạn, tôi năn nỉ
"mi" "noái" cho tau nghe chút cho đỡ "dớ". Con
gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép nhẹ nhàng. Có một cái gì thật
mong manh, như tơ, như sương, khói, như một điều không có thật trong con người
của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự hiện hữu. Một chút
hương khói hư ảo chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc
lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả. Mười ba năm qua, chỉ xin nói cho nghe vài
câu cho đỡ nhớ "nhà". Như thế là yêu đấy, nhiều mới khổ chứ. Dù tôi
chỉ biết Huế sau Tết Mậu Thân và không quá 10 lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế
bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến, những
điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về "Huế của
riêng tôi", và như vậy cũng có nnghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của
những huân hoan đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh, đeo
đuổi tôi trong suốt 13 năm qua . Mười ba năm trước đã không thành, không nói.
Thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi vì dù có thêm 100 năm nữa "Hai
mái đầu xanh giờ đã bạc" cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng
nữa, thì cũng là kiếp sau. Nhưng "Tình tưởng đã yên mà tâm còn động
vọng". Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được.
Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình.
Chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với
lời dặn xưa "Qua đèo Hải Vân, nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em".
Mộng đã tàn. Tôi đã tỉnh với đau đớn. Thì thầm một
mình "khóc đi chứ". Còn khóc được là biết mình còn sống, còn khóc
được là biết Huế còn đó trong trái tim, trong tận cùng đáy sâu thống khổ, khốn
cùng của một kiếp người mà hạnh phúc cùng đồng nghĩa với bất hạnh.
Tôi vốn là một đứa trẻ mồ côi cha. Cha tôi chết trong
trại Đầm Đùn (*) sau 4 năm giam hãm. Học hành dở dang, vài năm trường tây, vài
năm trường ta. Trường học chẳng dạy tôi điều gì. Gia đình chẳng dạy tôi điều
gì. Nên tôi tự dạy tôi ra đời năm 16 tuổi. Đi hát nhưng không bao giờ nghĩ mình
lại trở thành ca sĩ. Hát vì thích hát. Điều này tôi hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi
ông bố có nhiều nghệ sĩ tính nhưng lại đi theo kháng chiến và chết đau thương
trong lao tù. Không có tình thương của cha, không hợp tính với mẹ. Ngoài ý
thích được hát, tôi không biết mình phải làm gì. Đời sẽ cho tôi những gì và tôi
sẽ có được những gì. Tôi quờ quạng sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng,
nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia cho nửa chai nước mắm. Nghèo mà vui tôi
không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi, từ bỏ. Tôi như một thằng con trai, giữa
đám bạn trai. Tuy không có cái cảnh vườn đào kết nghĩa nhưng cho đến giờ đây,
gần 30 năm qua, có đứa đã ra đi mãi mãi, có đứa nửa điên nửa dại, có đứa nhà
cao cửa rộng, vợ con đề huề. Thỉnh thoảng gặp lại, tưởng như 30 năm chỉ là một
ngày. Cũng tưởng đời sẽ lêu bêu mãi cho đến ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là
điều có thật, thì điều đó đã đến với tôi một đêm mưa tại Đà Lạt.
Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng
đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với
chiếc răng khểnh, người con trai đó nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Đà Lạt, đa
số nói tiếng Huế tuy hơi lai, nhưng Sơn là "Huế chay". Sơn với hai
bàn tay gày guộc, những ngón tay dài tài hoa, chắp cho tôi đôi cánh, xỏ vào
chân tôi đôi hia bảy dặm. Cô bé lọ lem lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường
này bước sang một đoạn trường khác.
Từ Sơn, tôi đã thành danh, nhưng đó cũng chưa hẳn
là điều tôi mong muốn. Tôi có cảm tưởng như vậy. Có phải đời sống là như thế
hay sao? Thế là đủ hay sao? Nếu thiếu thì thiếu cái gì và tại sao thiếu? Đời
sống tầm thường thế thôi sao? Một đứa trẻ mồ côi, bị gia đình hắt hủi - luôn
luôn thèm một mái ấm gia đình, một lời nói ngọt ngào của mẹ, thèm từ một cái
áo, một đôi giày. Mà phải là gia đình nghèo khó gì cho cam. Chỉ vì ... đúng là
tôi sinh ra dưới một ngôi sao không mấy đẹp. Lúc sống lang thang như một người
lãng tử, tôi thường tự hỏi mình nhu cầu gì cho đời sống. Sống trong đời sống
mình phải có những gì? Tình, tiền, danh vọng? cho đến lúc nghĩ rằng mình đã có
đủ những điều mơ ước, tôi vẫn luôn luôn âm thầm. Hình như không phải như mình
nghĩ. Cuộc sống, đời sống, con người sống trong đời chỉ tầm thường thế sao?
Một hôm tôi hỏi Sơn: Sống trong đời sống mình cần
phải có gì? làm gì? Sơn cười ngón tay dài khẽ đẩy cái gọng kính đang trễ xuống.
Câu trả lời ngắn gọn: Cần có một tấm lòng. Tôi nhìn Sơn: "Một tấm
lòng?" ở giữa thế kỷ này, giữa thời gạo châu củi quế, giữa thời giá trị
của một con người được đánh giá bởi áo quần, nhà cửa, vòng vàng, hột xoàn...Một
tấm lòng để làm gì? Sơn nhìn tôi, ngón tay lại đẩy cao gọng kính. "Sống
trong đời, ta luôn luôn phải sống với một tấm lòng, phải có một tấm lòng, dù
không để làm gì cả, dù chỉ để... gió cuốn đi.". Tôi nhìn sững Sơn không
nhớ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Cứ ngồi nhìn anh, nhìn vầng trán mênh mông,
cúi xuống thật thấp, ngón tay gầy trên nhựng sợi dây đàn. Chiều xuống lúc nào
không hay, gió từ sông Hương thổi mạnh. Hình như trời muốn chuyển mưa. Hình như
lòng tôi cũng đang chuyển động dữ dội. Một ánh sáng kỳ lạ nào đó vừa chiếu rọi
vào cõi tôi u tối, ngu muội. Hình ảnh con nhỏ bụi đời, lúc hàn vi chợt sừng
sững trước mắt tôi. Cái ngõ tối lầy lội đường Phan Thanh Giản, cái nhà sàn cầu
sắt Đa Kao. Những buổi chiều nằm trên đồi sân Cù Đà Lạt, khóc một mình. Tất cả
chợt sống lại hay đúng hơn, ở một lúc nào đó tôi đã chết rồi. Và chiều nay bên
dòng sông Hương êm đềm thơ mộng - vầng trán mênh mộng, giọng nói dịu dàng, ánh
mắt thăm thẳm, bao dung, Sơn kéo tôi khỏi cái chết ngu xuẩn. Sông vẫn chảy đời
sông, suối vẫn trôi đi đời suối, đời người cũng dễ sống và hãy thả trôi đi
những niềm đau.
Hai mươi năm qua, tôi sống như lời Sơn nói, như
điều Sơn muốn. Còn có ai thấy được hay không, điều đó không cần thiết. Chỉ cần
Sơn không thất vọng - điều đó đủ rồi. Những ngày tháng ở Huế, gần Sơn và gia
đình. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đời tôi. Sáng Đông Ba, chiều Vỹ
Dạ, tối họp nhau ở Cercle hoặc nhà anh chị Lễ, đàn hát ngâm thơ. Sơn yêu thơ
Nguyễn Bính, bắt tôi ngâm đi ngâm lại bốn câu: "Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm xuống ngắn mà
trời cứ mưa. ở đây tôi sống như thừa. Có đêm men rượu tạm vừa lòng nhau." Có bao giờ Sơn hiểu rằng, dù rượu có hết mà
sầu vẫn không vơi. Sơn ơi, Huế ơi, "Nỗi sầu như tóc bạc, cứ cắt lại dài ra"...
Comments