Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

ĐÌNH LÀNG THẾ VINH VÀ NHỮNG HỌA TIẾT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CÓ MỘT KHÔNG HAI TẠI VIỆT NAM (Ảnh chụp ngày Làng tế)

TRANG THÔNG TIN GIA ĐÌNH CỦA LÊ NGỌC TÂM (CHS BỒ ĐỀ NK 67 - 74)
               BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM 
                 BLOG: CHSBODELENGOCTAM - EMAIL: LENGOCTAM138@GMAIL.COM 
                     LIÊN HỆ : LÊ NGỌC TÂM, 138 ĐỐNG ĐA, Q. HẢI CHÂU TP ĐÀ NẴNG
                                      ĐT: 0914.000.909 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108

HÃY GIỮ GÌN NHỮNG HỌA TIẾT VÀ ĐƯỜNG NÉT HOA VĂN ĐỘC ĐÁO CỦA ĐÌNH LÀNG THẾ VINH DÙ ĐÃ QUA HÀNG TRĂM NĂM.















Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

LÀNG TẾ NGÀI ĐẶNG TẤT HÀNG NĂM VÀO NGÀY 16/7/ÂM LỊCH (QUÝ TỴ)

TRANG THÔNG TIN GIA ĐÌNH CỦA LÊ NGỌC TÂM (CHS BỒ ĐỀ NK 67 - 74)
               BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM 
                 BLOG: CHSBODELENGOCTAM - EMAIL: LENGOCTAM138@GMAIL.COM 
                     LIÊN HỆ : LÊ NGỌC TÂM, 138 ĐỐNG ĐA, Q. HẢI CHÂU TP ĐÀ NẴNG
                                      ĐT: 0914.000.909 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108

đã hơn 600 năm dân làng thế vinh (lê ngọc tộc) đã có công gìn giữ sắc phong và thờ phượng hương linh ngài, HằNG NĂM VÀO NGÀY 16/7/ÂM LỊCH  dân LÀNG THẾ VINH TỔ CHỨC LỄ TẾ THẦN HOÀNG ĐẠI QUỐC CÔNG KHUÔNG QUỐC ĐẠI VƯƠNG THƯỢNG ĐẲNG TÔN THẦN QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT


Đại quốc công, Khuông Quốc Đại Vương Thượng Đẳng Tôn Thần Đặng Tất 

Đình Làng Thế Vinh 

BÊN TRONG ĐỀN THỜ NGÀI ĐẶNG TẤT


ĐẠI DIỆN TỘC ĐẶNG (Ô. ĐẶNG VĂN PHƯỚC) ĐẠI DIỆN TỘC LÊ NGỌC (ÔNG LÊ NGỌC TÂM 
Đón bằng công nhận di tích lịch sử Đền thờ Ngài Đặng Tất tại Lang Thế Vinh


TIẾN HÀNH LỄ TẠI ĐỀN THỜ NGÀI ĐẶNG TẤT










TIỂU SỬ NGÀI ĐẶNG TẤT
    Theo Đặng tộc đại tông phả, ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Con trưởng của Bá Kiển là Đặng Bá Tĩnh đỗ thám hoa đời nhà Trần. Bá Tĩnh chính là ông nội của Đặng Tất. Con trưởng của Bá Tĩnh là Đặng Đình Dực chính là cha Đặng Tất[1].
    Đặng Tất sinh ra và lớn lên tại làng Tả Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, Nghệ An châu nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông thi đậu Thái học sinh thời nhà Trần và được bổ làm tri phủ Hoá Châu nay là vùng Hải Lăng, Quảng Trị. Sau đó lại chuyển đến huyện Thăng Bình, Quảng Nam.

TƯỚNG NHÀ HỒ

     Khi Hồ Quý Ly nắm quyền bính trong triều Trần đã tin dùng Đặng Tất. Năm 1391, ông được phong làm Đại tri châu Hoá châu do cùng Hoàng Hối Khanh tố cáo hai tướng trấn thủ ở đây là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê có ý bất mãn về việc Quý Ly sắp lấy ngôi nhà Trần.
Năm 1402, để củng cố phía Nam, Hồ Quý Ly cho lập ra 4 châu mới chiếm của Chiêm Thành: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt lộ Thăng Hoa để thống nhất cả 4 châu, cử Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Theo sử sách, hai họ nhà Đặng và Nguyễn có thân nhau từ trước nên từ đó Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân càng thân thiết và có uy tín lớn trong vùng.
Nhân lúc nhà Hồ chưa ổn định, Chiêm Thành quấy rối phía nam. Hồ Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Tuyên uý sứ trấn thủ cả vùng Thăng Hoa. Đến Thăng Hoa, Hối Khanh chọn Đặng Tất, Phạm Thế Căng và Nguyễn Lỗ giúp việc cho mình.

TẠM HÀNG QUÂN MINH

     Nhà Minh đem quân sang xâm chiếm nước Đại Ngu, cha con Hồ Quý Ly thua chạy vào nam, bị quân Minh đuổi gấp, bèn viết thư cho Hoàng Hối Khanh, sai lấy dân Việt mới đến khẩn hoang ở Thăng Hoa và dân bản địa cũ làm quân “cần vương” giao cho Nguyễn Lỗ, lại phong cho người Chiêm là Chế Ma Nô Đà Nan[2] làm Thăng Hoa quận vương để vỗ về dân Chiêm tại đây.
Tháng 6 năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt. Chiêm Thành nhân đó mang quân đánh chiếm lại Thăng Hoa, dân mới di cư đến tan rã bỏ chạy, Hoàng Hối Khanh rút về Hoá châu. Đặng Tất về theo bằng đường thuỷ về trước, Nguyễn Lỗ đi đường bộ về sau. Lỗ vốn có hiềm khích từ trước với Đặng Tất, Trấn phủ sứ Thuận Hoá là Nguyễn Phong về phe với Lỗ ngăn không cho Đặng Tất vào thành. Tất đánh giết được Phong rồi sau đó cùng Lỗ giao chiến hơn 1 tháng, đánh bại Lỗ. Lỗ chạy sang Thăng Hoa đầu hàng Chiêm Thành và được trọng dụng.[3]
      Chế Ma Nô Đà Nan cô thế bị quân Chiêm giết chết. Chiêm Thành thừa thế tiến lên đánh Hoá châu, trong khi đó quân Minh sau khi bắt cha con họ Hồ cũng tiến vào “bình định” Hoá châu. Phạm Thế Căng đón quân Minh ở Nghệ An xin hàng. Trương Phụ cử Đỗ Tử Trung đi dụ Hoàng Hối Khanh và Đặng Tất. Hối Khanh bỏ trốn. Bị kẹp giữa hai kẻ địch, Đặng Tất quyết định hàng quân Minh để ngăn quân Chiêm bắc tiến, được Trương Phụ cho giữ chức Đại tri châu Hoá châu như cũ.
Tạm yên phía bắc, Đặng Tất dồn sức chống Chiêm Thành phía nam. Quân Chiêm không đánh nổi phải rút về. Đặng Tất sai người đi tìm Hoàng Hối Khanh về bàn mưu chống quân Minh. Tháng 7 năm 1407, Hối Khanh về đến cửa Hội, gặp gió to đánh vỡ thuyền, bị thổ binh theo quân Minh bắt được. Không muốn lọt vào tay quân Minh, Hối Khanh tự sát. Trương Phụ đem thủ cấp của Hối Khanh ra bêu ở chợ Đông Đô.

DANH TƯỚNG HẬU TRẦN (Chuyển bại thành thắng)

Tháng 11 năm 1407, tôn thất nhà Trần là Trần Ngỗi xưng đế ở Mô Độ (Ninh Bình), tức là Giản Định Đế, lập ra nhà Hậu Trần, khởi binh chống quân Minh. Quân Hậu Trần mới họp, bị quân Minh đánh bại phải chạy vào Nghệ An.
Nghe tin đó, Đặng Tất bèn giết quan lại nhà Minh ở Hoá châu và mang quân ra Nghệ An theo Trần Giản Định đế, được phong làm quốc công. Trần Ngỗi lấy con gái ông làm vợ. Nguyễn Cảnh Chân và nhiều tướng khác cũng mang quân đến họp, thế quân Hậu Trần mạnh lên.
Đầu năm 1408, theo kiến nghị của Đặng Tất, Giản Định Đế điều quân đánh Nghệ An và Diễn Châu, tiêu diệt lực lượng của hai quý tộc nhà Trần cũ là Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu theo hàng quân Minh trấn giữ.
Trương Phụ cùng tướng người Việt là Mạc Thuý (tổ 4 đời của Mạc Đăng Dung) mang quân vào đánh Diễn châu. Quân Hậu Trần ít không chống nổi, rút vào Hoá châu. Khi Trương Phụ đuổi đến cửa sông Gianh, Phạm Thế Căng ra đón, được Phụ cho làm Tri phủ Tân Bình.
Coi như đã dẹp xong Giao Chỉ, Phụ rút về Đông Quan (Hà Nội) rồi mang đại quân về nước.
Tháng 5 năm 1408, Đặng Tất cùng Giản Định đế từ Hoá châu ra đánh chiếm lại Nghệ An. Tân Bình vẫn do Phạm Thế Căng chiếm giữ. Thế Căng cậy quyền hống hách, tự xưng là Duệ Vũ đại vương. Tháng 7 năm 1408, Đặng Tất mang quân vào đánh Tân Bình, phá tan quân Thế Căng ở cửa Nhật Lệ, bắt giết Căng và cháu là Đống Cao. Quân Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An tới Thuận Hoá.

Đại chiến Bô Cô

    Giản Định đế lệnh cho Đặng Tất tiến quân ra bắc. Đặng Tất huy động quân 5 lộ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, tiến ra Trường Yên (Nam Định). Dân đi theo rất đông. Ông tuyển thêm được nhiều binh lính, chia đường đánh đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại ở Tam Giang và đánh phá ngoại vi Đông Quan.
    Minh Thành Tổ sai Mộc Thạnh, Lưu Tuấn mang 4 vạn quân sang tiếp viện. Thạnh họp với Lữ Nghị ở Đông Quan, tập trung ở bến Bô Cô (Nam Định). Ngày 30 tháng 12 năm 1408, dưới sự chỉ huy của Giản Định đế và Đặng Tất, quân Hậu Trần đánh bại quân Minh một trận oanh liệt. Nhân lúc nước thuỷ triều lên cao, gió lớn, quân Hậu Trần đóng cọc ở sông và đắp luỹ hai bên bờ chống cự với hai cánh quân thuỷ bộ của địch từ giờ tỵ đến giờ thân[4], giết chết thượng thư bộ binh Lưu Tuấn, đô đốc Lữ Nghị, tham chính ty bố Giao Chỉ là Lưu Dục, đô chỉ huy sứ Liễu Tông và 10 vạn quân Minh. Mộc Thạnh dẫn tàn quân chạy vào thành Cổ Lộng.
    Về sau Lê Quý Đôn thời Hậu Lê đi qua vùng Ý Yên - Phong Doanh, thấy nông dân nhặt được những thanh gươm cũ của quân Minh, lại thấy thành Cổ Lộng hoang tàn đổ nát, tức cảnh làm bài thơ[5]:
Cổ Lộng thành
Hoang lũy đồi viên tứ bách thu
Qua đắng đậu man phóng xuân nhu
Bích ba dĩ tẩy Trần Vương hận
Thanh thảo nan tha Mộc Thạnh tu
Hoàng độc vũ dư canh kiếm cố
Hàn cầm nguyệt hạ táo hàn lâu
Phong cương hà dụng cần khai tịch
Nghiêu Thuấn đương niên chỉ cửu châu
Dịch:
Thành Cổ Lộng
Bốn trăm năm thành đổ lũy hoang
Cỏ chèn dưa đậu buổi xuân sang
Trần Vương[6] sóng biếc vơi buồn hận
Mộc Thạnh cây xanh cứ bẽ bàng
Ruộng cũ gươm han trồi mưa nặng
Đài xưa chim lạnh hót trăng tàn
Biên cương há phải khuếch trương rộng
Chín châu Nghiêu Thuấn đủ khang trang

CÔNG THÀNH TỘI

Giản Định đế muốn thừa cơ đánh ngay vào lấy Đông Quan, nhưng Đặng Tất lại chủ trương đánh xong số quân địch còn sót lại rồi mới tiến. Vua tôi bàn mãi chưa quyết định được, viện binh quân Minh ở Đông Quan đã tiếp ứng cho Mộc Thạnh chạy về cố thủ Đông Quan. Đặng Tất chia quân vây các thành và gửi hịch đi các lộ kêu gọi hưởng ứng đánh quân Minh.
Do bất đồng về sách lược, vua Giản Định không bằng lòng với ông và Nguyễn Cảnh Chân. Nghe theo lời gièm pha, vua Giản Định sợ uy tín của hai người quá cao, lại nghi ngờ hai tướng "có ý khác" vì hai người từng làm quan cho nhà Hồ và từng hàng quân Minh. Tháng 3 năm 1409, vua Giản Định đóng quân bên bờ sông Hoàng Giang, sai triệu hai tướng đến rồi sai võ sĩ bóp cổ giết chết Đặng Tất. Nguyễn Cảnh Chân sợ hãi bỏ chạy lên bờ cũng bị đuổi theo chém chết.
Hai người con hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bất bình vì cha bị giết oan, bỏ đi lập Trần Quý Khoáng làm vua, tức là Trần Trùng Quang Đế.

TƯỞNG NHỚ

Thi hài Đặng Tất được các con ông mang về chôn ở làng Thế Vinh, huyện Sĩ Vang, ngoại thành Hóa châu (nay là xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế). Mộ ông nằm ở ven bờ namsông Hương, cách bến đò Sình khoảng 3 km và cách thành Hóa châu khoảng 7 km. Dân trong vùng tôn ông làm Thành Hoàng.
Năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh xong quân Minh, ban chiếu cho hai cha con ông (cùng Đặng Dung) biển vàng tám chữ: "Tiết liệt cương trung - Trung thần hiếu tử", truy phong Đặng Tất làm Đại quốc công, Khuông quốc đại vương Thượng đẳng tôn thần; cho lập đền thờ tại quê hương Tả Thiên Lộc, cấp 200 mẫu ruộng lộc điền, giao cho huyện xã hằng năm cúng tế.
Vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng cha con ông hai câu đối:
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng
Đền thờ: ở rất nhiều nơi. Ngày nay tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,.. đều có phố mang tên Đặng Tất.

NHẬN ĐỊNH

Đời sau còn bàn luận nhiều về việc bất đồng chiến thuật giữa vua Giản Định và Đặng Tất, một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đặng Tất.
Đại Việt Sử ký Toàn thư dẫn ý kiến của Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên như sau:
Phan Phu Tiên nói: "Đặng Tất chỉ biết hành quân là gấp mà không biết cứu Đông Đô còn gấp hơn. Đông Đô có tầm hình thế của cả nước. Chiếm được Đông Đô thì các lộ không đâu không hưởng ứng, hơn nữa hào kiệt trung châu đều ở cả đó. Bỏ nơi ấy mà không lo đánh chiếm, lại chia quân phân tán đi các xứ, vì thế hiệu lệnh không thống nhất, rốt cuộc đi đến sụp đổ là đáng lắm!"
Ngô Sĩ Liên nói: "Đường Thái Tông dùng binh, phần nhiều nhân thế chẻ tre mà giành thắng lợi, là vì có tư thế anh hùng mà tướng và quân vốn đã rèn sẳn. Vua tính kế quyết thắng nhưng Tất không theo, cố nhiên là đáng tiếc. Song có lẽ Tất liệu vua mình không phải là bậc anh hùng như [Đường] Thái Tông, mà quân thì từ xa đến, lương thực có thể không tiếp tế được, còn quân ở kinh lộ thì chưa tập hợp được, chẳng thà theo phép [binh pháp] hơn địch gấp 10 lần thì bao vây, hơn địch gấp 5 lần thì đánh là hơn. Nếu không thế thì thành Cổ Lộng chỉ cách Bô Cô không quá nửa ngày đường sao vẫn không thể thừa thế chẻ tre mà đánh. Huống chi thành Đông Quan. Kế ấy cũng chưa lấy gì làm hỏng lắm, chỉ vì vua tin lời gièm mà vội giết Tất thôi. Than ôi, Đặng Tất sau khi phá được giặc mạnh, trổ tài mới trong khoảng một tuần một tháng, công việc chưa làm được một nửa mà bị chết oan, đó là cái họa sụp đổ [của nhà Trần], chứ đâu phải là tội của Tất."
Việt Sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ bàn rằng:
Bô Cô ở sông Thanh Quyết, theo thủy triều, đi thuyền 3 trống canh có thể đến Lạc Tràng, đi thẳng lên Đông Đô không đến một ngày, thừa trận được to ấy, mà không tán thành lời quyết định của vua Giản Định, ai chả tiết là thất cơ. Nhưng mà Tất đã vất vả ở Bố Chính, bị Trương Phụ đuổi ở phía sau, Thế Căng ngăn ở mặt trước, mà phá được Thế Căng, lấy lại Tân Bình, mới điều động được quân ở các trấn Thuận, Quảng, Hoan, Ái, để có quân tiến đánh Đông Đô; lặn lội hàng tuần đến được Bô Cô, may mà bẻ gãy được gươm giáo của quân Điền và Kiềm. trương thanh thế quân Thanh, Nghệ, còn một bước nữa thì đến Thăng Long, nòn xa gì nữa mà phải dùng dằng không tiến. Tất cả trù tính kỹ lắm rồi, Mộc Thạnh mới sang, xa xôi nghìn dặm, quân bị đói khát mỏi mệt, thoát chết ở Bô Cô là may lắm. Còn Trương Phụ là tay cáo già, như con hổ ngồi nhìn ở Đông Đô, bây giờ là toán quân cô độc của ta xa xôi kéo đến, chưa kể thủ thắng, vạn nhất trước mặt, sau lưng đều có quân địch, ta không có quân, lương cứu viện, có phải là dẫn thân đến chỗ chết không? Cho nên thà nghỉ ngơi để mà điều độ, mới là kế vạn toàn. Tất cũng là trí tướng đấy chứ. Nếu được dùng hết mưu đồ của ông, thì người Minh cũng phải có phen khốn đốn, quyết không dám bảo nước ta không có người. Tiếc thay! Vua Giản Định tự phá hủy bức trường thành của mình đó!"
Xét cho kỹ, Đông Quan là chỗ quy tụ lòng người, đánh được nơi đó có thể kêu gọi dân trong nước đồng loạt hưởng ứng để tăng uy thế. Tuy nhiên, thực tế từ khởi nghĩa Lam Sơn sau này cho thấy, không nhất thiết phải chiếm cho được Đông Quan vẫn có thể giành thắng lợi sau cùng. Trần Ngỗi muốn "tốc chiến tốc thắng" trong khi Đặng Tất chủ trương "đánh đâu chắc đó".
Chiến thuật của Đặng Tất sau chiến thắng Bô Cô (chia quân vây các thành và gửi hịch gọi các nơi) chính là chiến thuật mà Lê Lợi sau này đã áp dụng trong giai đoạn cuối của khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi nổi dậy đánh quân Minh vang tiếng từ 10 năm, có trong tay 25 vạn quân, vây bức Đông Quan gần 1 năm nhưng vẫn chủ trương chặn đánh diệt viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh trước khiến Đông Quan phải tự hàng, giống chiến thuật của Đường Thái Tông đánh Hạ và Trịnh[7]. Giả sử quân Hậu Trần có thể đánh chiếm Đông Quan nhưng sẽ khó lòng giữ được khi đại quân của mãnh tướng Trương Phụ tiến sang tiếp viện và các cánh quân dưới quyền Mộc Thạnh lão luyện kéo về[8].
Tuỳ hoàn cảnh và thời cơ, việc quân sự có thể vận dụng khác nhau. Đời sau có thể bàn vua Giản Định có lý hay Đặng Tất có lý nhưng tựu chung, cơ nghiệp của Trần Ngỗi vẫn còn cơ hội phát triển nếu không sát hại Đặng Tất. (Xem thêm bài Giản Định Đế)
Sự nghiệp của Đặng Tất gắn liền với những biến cố chủ yếu của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ 15 trước khởi nghĩa Lam Sơn. Đặng Tất sống giữa nhiều "làn đạn", bên trong thì Trần - Hồ, bên ngoài thì Minh – Chiêm, tuỳ thời thế ông luôn biết xoay sở với thời cuộc. Cách tư duy "trung quân ái quốc" kiểu phong kiến khiến vua Tự Đức nhà Nguyễn đưa ra câu hỏi nghi vấn về ông: "Đặng Tất xuất thân như thế, phải chăng là có hai nhân cách?"[9] Theo các nhà sử học đánh giá, Đặng Tất dù sống dưới chế độ nào, ông luôn hướng về mục tiêu vì lợi ích của nước Đại Việt - Đại Ngu. Cơ nghiệp nhà Trần trước đây đã suy vi không thể cứu vãn nên ông đứng về phía nhà Hồ. Nhà Hồ thất bại, ông phải tạm hàng Minh để ngăn sự xâm lấn của Chiêm Thành và tạo cơ sở chống Minh về sau. Trong lúc hỗn loạn đó, ông không không tử tiết theo nhà Trần như Trần Khát Chân hay tử tiết theo nhà Hồ như Nguyễn Hy Chu và Hồ Xạ, không chạy sang Chiêm như Nguyễn Lỗ, cũng không phục vụ đắc lực cho người Minh để chống lại đồng bào mình như Mạc Thuý, Lương Nhữ Hốt. Ông không khư khư giữ hai chữ "thủ tiết" như một nhà nho. Ông chọn con đường sống và cũng không sống nhàn cư ẩn dật khi nước mất nhà tan. Giữa thời kỳ muôn vàn khó khăn ở một góc Hoá châu, tài năng, bản lĩnh và lòng yêu nước của ông được bộc lộ.
Đặng Tất là tướng giỏi nhất của nhà Hậu Trần. Thực tế chiến sự sau khi ông mất cho thấy không có ai xứng đáng thay thế ông. Các tướng Đặng Dung con ông, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý,Nguyễn Biểu đều có thừa lòng dũng cảm và trung nghĩa, nhưng tài năng chưa sánh được với ông. Quân Hậu Trần từ chỗ bị dồn vào Hoá châu, nhờ một tay Đặng Tất chỉ trong 1 năm đánh như chẻ tre ra bắc, áp sát Đông Quan; sau khi ông mất quân Hậu Trần bị thua mãi, bị dồn trở lại tới Hoá châu và đi đến diệt vong, bản thân Trần Ngỗi cũng phải trả giá đắt.
Danh sĩ Bùi Dương Lịch thời Lê mạt viết về ông trong sách Nghệ An ký như sau:
"Nhà Trần đã mất mà khôi phục được tông thống trong 7 năm, sự nghiệp oanh liệt của ... ông cùng trời đất bất hủ"[10]
Tiến sĩ đời Hậu Lê là Sùng Nham hầu Dương Văn An cũng ca ngợi Đặng Tất trong sách Ô châu cận lục:
"Đặng Tất là bậc trung nghĩa, trí dũng song toàn, quả là nhân tài của thiên hạ chứ đâu phải nhân tài của riêng Ô châu này thôi đâu... Cái tiếc của Đặng Tất là vì những lời gièm pha như lưỡi gươm chí mạng khiến chí lớn không thành. Tuy nhiên cái chết của Đặng Tất đâu phải tội của ông mà chính là nỗi bất hạnh của nhà [Hậu] Trần vậy. Người quân tử đâu có lấy sự thành bại để đánh giá anh hùng[11]"

Đình Làng Thôn Thế Vinh qua 100 năm lưu giữ truyền thống và là nơi Dân Làng Thế Vinh tổ chức lễ tế và đón rước sắc phong của Đại quốc công, Khuông Quốc Đại Vương Thượng Đẳng Tôn Thần Đặng Tất  hằng năm vào ngày 16 tháng 7 Âm lịch






Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

VU LAN BỒN VÀ MÙA BÁO HIÊU

TRANG THÔNG TIN GIA ĐÌNH CỦA LÊ NGỌC TÂM (CHS BỒ ĐỀ NK 67 - 74)
               BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM 
                 BLOG: CHSBODELENGOCTAM - EMAIL: LENGOCTAM138@GMAIL.COM 
                     LIÊN HỆ : LÊ NGỌC TÂM, 138 ĐỐNG ĐA, Q. HẢI CHÂU TP ĐÀ NẴNG
                                      ĐT: 0914.000.909 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108



Nguồn gốc và ý nghĩa của Lễ Vu Lan


Nếu ở Tây phương có ngày Mother's day (ngày của mẹ), Father's day (ngày của cha) thì Việt Nam có ngày lễ Vu Lan truyền thống mang ý nghĩa báo hiếu đấng sinh thành, đồng thời nhắc nhở con người tìm về nguồn cội.
     
Xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trướcTheo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.
Một mùa Vu Lan nữa lại về, nhắc nhở mỗi con người chúng ta bài học sâu sắc về chữ Hiếu thiêng liêng
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đờiTrong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát. Ở Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 7, hay là ngày 15 tháng 8 (tính theo Âm lịch) để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn.Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: Cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều. Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm làm bằng giấy tượng trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo, giày dép...Gần đây có tệ nạn rất lãng phí và vô lý là làm đồ mã gồm cả tivi, tủ lạnh, máy giặt, ngựa, phương tiện giao thông, mũ kepi, người giúp việc, thậm chí cả nhà cao tầng, quạt điện, điều hòa, di động, IPhone... để cho người cõi âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người dương trần.Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng...), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa... và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng: như bỏng, oản...Tượng trưng cho những cô hồn...Lễ Vu Lan ở Việt Nam không những nhắc nhớ việc báo hiếu cha mẹ mà còn bao hàm ý nghĩa tìm về cội nguồn để biết ơn và báo ơn. Tư tưởng ấy hoàn toàn phù hợp với tư duy hiền hậu chất phác của người Việt Nam: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.Bông hồng cài áoTháng Bảy, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân. Ngày nay trong lễ này, người Việt ta có một "quy ước": nếu ai đó còn mẹ sẽ được cài một bông hoa màu hồng lên áo. Ai đã mất mẹ thì cài hoa trắng. Người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở, sẻ chia, không bao giờ quên ơn cha mẹ. Người được hoa hồng sẽ sung sướng vì biết rằng mình còn có mẹ.Bông hồng cài áo thực ra là tên một đoạn văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và cũng là tên một ca khúc do nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác trong thập niên 1960, lấy ý từ bài viết trên.
Vào ngày này, mỗi người thường được cài lên áo một chiếc hoa hồng: màu đỏ cho người còn mẹ và màu trắng cho ai đã mất mẹ.
Theo Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, bông hoa hồng trong cách nhìn của người Việt là loài hoa thông dụng và dễ thương, được nhiều người yêu thích nhất. Loài hoa này còn mang quy ước biểu hiện của tình yêu thương của loài người. Chính vì thế Hòa thượng đã chọn bông hoa hồng làm biểu tượng cho lễ Vu Lan báo hiếu của nhà Phật và viết ấn phẩm “Bông Hồng Cài Áo” vào tháng 8 năm 1962.

Để làm mọi người hiểu hơn về điều này, chính bản thân Hòa thượng đã làm lễ cài Bông hồng đầu tiên cho tăng ni và phật tử ở chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Từ đó các chùa và các tổ chức gia đình phật tử đã nhân rộng thành lễ cài Bông hồng trong dịp lễ Vu Lan báo hiếu như hiện nay.

Vu lan hay còn gọi là Tết Trung nguyên còn được gọi là lễ xá tội vong nhân. Vào ngày này, mọi tù nhân ở địa ngục đều được xá tội, được lên dương gian. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng cô hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa, không có thân nhân trên dương thế thờ cúng.
Từ đó về sau theo lời Phật dạy, các phật tử muốn báo hiếu cha mẹ cũng cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn. Dân gian còn gọi tháng bảy là “tháng cô hồn” không đem lại may mắn, người ta thường tránh khởi sự làm ăn mua bán xây nhà trong thời gian này.
T.T (Tổng hợp)

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

NHỮNG HÌNH ẢNH TÔN TẠO LĂNG MỘ TỔ LÊ NGỌC TỘC VÀ MIẾU THỜ ÂM HỒN TẠI THÔN THẾ VINH

TRANG THÔNG TIN GIA ĐÌNH CỦA LÊ NGỌC TÂM (CHS BỒ ĐỀ NK 67 - 74)
               BLOG CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC BỒ ĐỀ LÊ NGỌC TÂM 
                 BLOG: CHSBODELENGOCTAM - EMAIL: LENGOCTAM138@GMAIL.COM 
                     LIÊN HỆ : LÊ NGỌC TÂM, 138 ĐỐNG ĐA, Q. HẢI CHÂU TP ĐÀ NẴNG
                                      ĐT: 0914.000.909 - 0919.95.65.15 - 0125.68.68.108

                                                       Buổi sơ khai có ngôi mô tổ
Đời mổi đời chia phái chia chi
cây cao bóng cả sum suê
lá rơi về cội, người về tổ tông
ai trồng cây cho ta hái quả
bởi vậy nên dạy cháu khuyên con
vun bền thổ trạch giữ thật vuông tròn
trong gia đình trên hòa dưới thuận
chuẩn họ hàng bách nhẫn thái bình
nguyện cầu tứ phú vạn linh
thập phương tam bảo chứng minh độ trì
cây có gốc mới nãy cành xanh trái
nước có nguồn từ bể rộng, sông sâu
với tổ tiên ta phải nhớ làm đầu
khắc ghi công đức phúc giàu đệ huynh./.

TỔNG THỂ KHU LĂNG MỘ TỔ TẠI THÔN THẾ VINH
              
BIA CỦA LĂNG MỘ TỔ MỚI TRÙNG TU



TRÂN TRỌNG KÍNH BÁO
     DỰ LỄ CÚNG TẠ LĂNG MỘ TỔ LÊ NGỌC TỘC

KÍNH THƯA QUÝ BÀ CON NỘI NGOẠI  LÊ NGỌC TỘC
   NHỜ ƠN PHÙ HỘ ĐỘ TRÌ HỒNG ÂN CỦA TIÊN TỔ VÀ SỰ NỔ LỰC RẤT LỚN VỀ MỌI MẶT CỦA CON CHÁU NỘI NGOẠI . VỚI ĐẠO LÝ TRI ÂN CÔNG ĐỨC TIÊN TỔ.
   ĐẦU THU QUÍ TỴ NĂM 2013 BỔN TỘC LÊ NGỌC TỘC TẠI THÔN THẾ VINH, XÃ PHÚ MẬU, HUYỆN PHÚ VANG THỪA THIÊN HUẾ ĐÃ TIẾN HÀNH TÔN TẠO, CHỈNH TRANG KHU LĂNG MỘ TỔ LÊ NGỌC TỘC ĐẾN NAY ĐÃ HOÀN THÀNH.
   NAY NỘI TỘC XIN KÍNH BÁO VỀ VIỆC TỔ CHỨC LỄ CÚNG TẠ LĂNG MỘ TỔ.
   VẬY TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI BÀ CON NỘI NGOẠI GẦN XA ĐÚNG VÀO LÚC 09 GIỜ 00 NGÀY 18 THÁNG 8 NĂM 2013 (NHẰM NGÀY 13 THÁNG 7 ÂM LỊCH NĂM QUÝ TỴ ) TẬP TRUNG VỀ LĂNG MỘ TỔ HỌ TẠI KHU QUẦNG MỒ THUỘC THÔN THẾ VINH,  XÃ PHÚ MẬU, HUYỆN PHÚ VANG THỪA THIÊN HUẾ ĐỂ DỰ LỄ CÚNG TẠ.
   SỰ CÓ MẶT CỦA QUÍ BÀ CON LÀ NIỀM VUI SUM HỌP, ĐOÀN KẾT CỦA CON CHÁU NỘI NGOẠI LÊ NGỌC TỘC TRONG BUỔI LỄ LONG TRỌNG VÀ Ý NGHĨA NÀY
               RẤT HÂN HẠNH VÀ TRÂN TRỌNG ĐƯỢC ĐÓN TIẾP QUÝ BÀ CON./. 

                                                                                                                               TỘC  TRƯỞNG   LÊ NGỌC TÂM 


                                                                
bên trong lăng mộ tổ nhìn từ cánh phải

BÊN TRONG KHU LĂNG MỘ TỔ

                                                                                                                                                           
NHÀ BIA TRONG KHU LĂNG MỘ TỔ

         THỪA THIÊN HUẾ  CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
             QUẬN PHÚ VANG - XÃ PHÚ MẬU     Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
           THÔN THẾ VINH
      DANH SÁCH ĐÓNG GÓP TRÙNG TU LĂNG MỘ TỔ LÊ NGỌC TỘC 
       TẠI THÔN THẾ VINH - XÃ PHÚ MẬU - HUYỆN PHÚ VANG - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
          (Tạm thời vì tổng thu vẫn chưa hoàn tất như số lượng con cháu Lê NgọcTộc thực tế)
          Ngày động thổ :.../.../2013 (…/…/ÂL Năm Quý Tỵ)    Ngày lễ tạ :.../.../2013 ( …/…/ÂL Năm Quý Tỵ)                                            
STT Họ tên Năm sinh Thường trú Số tiền Ghi chú
(a) (b) (d) (đ) (e) (i)
1 Nguyễn Thị  Chanh   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
2 Lê Ngọc  Tâm   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
3 Vợ chồng  Thu Tấn   Hải Châu Đà Nẵng 1.000.000 $  
4 Lê Ngọc  Tuấn   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
5 Lê Ngọc  Tùng   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
6 Lê Ngọc  Thống   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
7 Lê Ngọc  Thuyết   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
8 Lê Ngọc  Trình   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
9 Lê Ngọc  Thưởng   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
10 Lê Ngọc  Phú   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
11 Lê Ngọc  Báu   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
12 Lê Ngọc  Châu   Hải Châu Đà Nẵng 200.000 $  
13 Lê Ngọc  Thố   Thanh khê ĐN  500.000 $  
14 lê ngọc ph Đại   Hải Châu Đà Nẵng 150.000 $  
15 Lê Ngọc ph  Lộc   Hải Châu Đà Nẵng 150.000 $  
16 Lê Ngọc  Tin   Thế Vinh 150.000 $  
17 Lê Ngọc  Nhứt   Thế Vinh 350.000 $  
18 Lê Ngọc  Mong   Thế Vinh 350.000 $  
19 Lê Ngọc  Thừa   Huế 850.000 $ 3 người
20 Lê Ngọc  Chín   Thế Vinh 500.000 $ 2 người
21 Lê Ngọc  Thắng   Thế Vinh 200.000 $  
22 O HỘT   Thế Vinh 100.000 $  
23 O XUÂN   Thế Vinh 100.000 $  
24 Lê Ngọc  Đạt   Thế Vinh 350.000 $  
25 Lê Ngọc  Thanh   Trà My 1.000.000 $  
26 Lê Ngọc  Thành   Cà Mau 1.000.000 $  
27 Lê Ngọc  Thống   Thế Vinh 200.000 $ Tí 
28 Lê Ngọc  Thảo   Thế Vinh 200.000 $  
29 Lê Ngọc  Thế   Thế Vinh 350.000 $  
30 Lê Ngọc  Thắng   Sài Gòn 1.000.000 $  
31 Lê Ngọc  Tám   Sài Gòn 350.000 $  
32   Bé Bé   Sài Gòn 1.000.000 $  
33   Nga (Em)   USA 4.224.000 $ 200 USD
34 Lê Ngọc  Lâm   Thanh Đàm 200.000 $
35 Lê Ngọc  Cường   Thế Vinh 200.000 $ Dũng
36 Lê Ngọc  Dãng   USA 200.000 $  
37 Lê Ngọc  Hàm   Thế Vinh 200.000 $  
38 Lê Ngọc  Khanh   Thế Vinh 200.000 $  
39 Lê Ngọc  Hài   Thế Vinh 200.000 $  
40 Lê Ngọc  Luật   Thế Vinh 200.000 $  
41 Lê Ngọc  Hóa   Phú Lộc 500.000 $  
42 Lê Ngọc  Chất   Thế Vinh 200.000 $  
43 Lê Ngọc  Minh   Thế Vinh 350.000  
44 Lê Ngọc  Bình   Thế Vinh 200.000 $  
45 O SEN   Dương Xuân 200.000 $  
46 LÊ NGỌC MƯỜI   Long An 400.000 $  
47 Lê Ngọc  Thoại   Thế Vinh 200.000 $  
48 Lê Ngọc  Huyên   Long An 350.000 $  
49 Lê Ngọc  Thức    Long An 350.000 $  
50 Lê Ngọc  Bình    Long An 350.000 $  
51 Lê Ngọc  Huy   Long An 350.000 $  
52 Lê Ngọc  Châu   Long An 150.000 $  
53 O LÀI   Phú Thượng 100.000 $  
54 O   Thế Vinh 100.000 $  
55 O Hòa   Huế 100.000 $  
56 Ban điều hành Thôn Thế Vinh 200.000 $  
57 O DIỆP   Thế Vinh 150.000 $  
58 Tộc NGÔ   Huế 100.000 $  
59 Tộc NGUYỄN   Thế Vinh 100.000 $  
60 Tộc TRẦN   Thế Vinh 100.000 $  
61 Tộc PHÙNG   Thế Vinh 100.000 $  
62 Tộc LÊ VĂN   Thế Vinh 100.000 $  
63 Chú CẦM Thợ sơn   200.000 $  
 tổng thu: (Hai mươi hai triệu sáu trăm hai bốn ngàn) 22.624.000 $


NGÔI NHÀ XƯA NƠI CHÔN NHAU CẮT RỐN

ĐÌNH LÀNG THẾ VINH 



MIẾU ÂM HỒN (CHƯA TRÙNG TU)


MIẾU ÂM HỒN SAU KHI ĐÃ ĐƯỢC TRÙNG TU  (CHÍNH DIỆN)


 MIẾU ÂM HỒN SAU KHI ĐÃ TRÙNG TU  (NHÌN NGHIÊNG)
MIẾU ÂM HỒN SAU KHI ĐÃ TRÙNG TU  (NHÌN TỪ XA)


 SAU ĐÌNH LÀNG LÀ NGÔI NHÀ CỦA TÔI





ĐỀN THẦN NÔNG NGOÀI ĐỒNG
mỘ CỐ BÀ NGUYỄN THỊ MÈO

MỘ EM LÊ NGỌC HỮU DANH VÔ VỊ HỮU VỊ VÔ DANH

MỘ CÔ BÀ LÊ THỊ GÁI

NHÌN XA MIẾU THẦN KIM QUY TẠI HUYỆN PHÚ LỘC HUẾ
CHUẪN BỊ LỄ TẠ LĂNG MỘ TỔ
CÁC GIÀ LÀNG THẾ VINH TẠI LỄ TẠ LĂNG
MẶC DẦU GIÓ RẤT LỚN NHƯNG LỄ TRẠ VÂN TIẾN HÀNH
TỘC TRƯỞNG LÊ NGỌC TỘC ĐANG LÀM LỄ TẠ LĂNG
VÌ GIÓ RẤT NHIỀU NÊN NGỌC TÙNG PHẢI CHỐNG ĐỠ BẠC ĐỂ CÚNG

TỘC TRƯỞNG ĐANG TIẾN HÀNH LỄ CÚNG TẠ

KHU LĂNG MỘ TỔ THẬT KHANG TRANG



TRƯỞNG TỘC LÊ NGỌC TÂM
LÊ NGỌC TÙNG
CÙNG VỚI CÁC BÔ LÃO KÍNH CẨN TRƯỚC LĂNG MỘ

TRÁI QUA: a TÙNG  (ĐẠI DIỆN TỘC NGUYỄN), A DŨNG (ĐẠI DIỆN TỘC NGÔ
CHÚ ÚT (ĐẠI DIỆN TỘC PHÙNG) TỪ XA CHÚ LỢI ÁO XANH
đẠI DIỆN TỘC NGÔ a. NGÔ ĐẠT DŨNG ĐANG LÀM LỄ

cHÚ PHÙNG VĂN ÚT (ĐẠI DIỆN TỘC PHÙNG ĐANG CÚNG
CHÚ TRẦN ĐÌNH SONG (ĐẠI DIỆN TỘC TRẦN) ĐANG LÀM LỄ


a. DŨNG THÔN TRƯỞNG ĐANG LÀM LỄ



BÀ CON TRONG TỘC ĐANG CHỐNG NHỮNG CƠN GIÓ MẠNH
cHÚ LÊ NGỌC THUẬN 
A. DŨNG THÔN TRƯỞNG VÀ EM LÊ NGỌC HOÀNH
CHÚ LÊ NGỌC THUẬN ĐANGVÁI TẠI LỄ TẠ


LỄ PHẨM TRONG LỄ TẠ TẠI LĂNG
PHẦN LỄ TẠ TRONG LĂNG